Một số nhân tố cơ bản tác động đến biến đổi đạo đức công vụ của đội ngũ công chức ở nước ta hiện nay
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đội ngũ công chức nước ta ngày càng phát triển về năng lực, trình độ song cũng nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp thuộc phạm trù đạo đức. Bởi ở Việt Nam, công chức thi hành công vụ trên cơ sở các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, thái độ, tinh thần, trách nhiệm, ý thức của đội ngũ công chức trong quá trình thực thi công vụ trong mối quan hệ với công dân phụ thuộc rất nhiều vào đạo đức công vụ.. Mà đạo đức công vụ là một phạm trù tương đối rộng, bao hàm đạo đức, lối sống, cách xử sự của cán bộ công chức không chỉ trong các mối quan hệ xã hội thông thường mà còn trong phạm vi thực hiện nhiệm vụ công. Mối quan hệ phức tạp này lại chịu tác động ở những khía cạnh khác nhau của các nguyên nhân khác nhau, bao hàm cả những nhân tố mang tính chủ quan, lẫn cả các nhân tố mang tính khách quan.
1. Nhân tố khách quan tác động đến biến đổi đạo đức công vụ ở Việt Nam hiện nay
Trong những năm qua, hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế thị trường đã tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đó, đạo đức nói chung, đạo đức công vụ nói riêng là một trong những lĩnh vực có nhiều thay đổi nhất, những thay đổi này mang nhiều nét phức tạp, có những cái đã định hình, có những cái còn đang phôi thai và hàm chứa cả những nhân tố mới tích cực và tiêu cực.
Hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế thị trường đã mở ra khả năng tiềm tàng giải phóng mọi năng lực của con người, thúc đẩy văn hóa đạo đức, phải gạt bỏ những gì cũ kỹ, lạc hậu, cổ vũ cho những gì mới mẻ, hợp quy luật. Quá trình này đã đánh thức cá nhân và xã hội Việt Nam hội nhập, phát triển, đồng thời tạo đà cho những chuẩn mực đạo đức mới, mọi người phải phát huy cao độ tính tự giác, năng động sáng tạo, chứ không thể trông chờ, ỷ lại. Hội nhập và cơ chế thị trường khuyến khích các cá nhân phấn đấu, khẳng định và tạo lập cơ chế đãi ngộ xứng đáng với sự cống hiến.
Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực, việc hội nhập quốc tế và nền kinh tế thị trường cũng có những mặt trái dễ làm cho con người sa ngã có thể bị biến chất đạo đức bất kỳ lúc nào. Hiện nay, dư luận xã hội đang rất quan tâm đến vấn đề đạo đức, đến vấn đề suy thoái đạo đức đang diễn ra trong xã hội, đặc biệt là trong một bộ phận không nhỏ cán bộ công chức - những người thực thi quyền lực công. Những nhân tố khách quan tác động đến đạo đức công vụ của cán bộ công chức có thể được khái quát ở những phương diện cụ thể sau:
Thứ nhất, sự du nhập của lối sống thực dụng đã trực tiếp tác động đến đạo đức, lối sống xã hội nói chung và một bộ phận cán bộ công chức nói riêng.
Chuyển sang cơ chế thị trường, tư tưởng coi trọng vật chất đã phát triển quá nhanh khi chúng ta chưa kịp xây dựng một nền tảng đạo đức xã hội tương ứng, dẫn tới nhiều giá trị trước đây tưởng sẽ bền vững nhưng khi va chạm với thực tế cơ chế thị trường thì vỡ tan hoặc bộc lộ những yếu ớt, bất lực, theo đó đã tác động không nhỏ đến đạo đức công vụ của đội ngũ cán bộ công chức.
Thứ hai, kinh tế thị trường kích thích cái “tôi” một cách thái quá và là tác nhân làm mất cân đối, thậm chí méo mó sự phát triển nhân cách.
Vấn đề này thể hiện ở chỗ khủng hoảng lý tưởng hay phá vỡ sự hài hòa nhân cách… Nhiều người cho rằng, trong điều kiện nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt hiện nay mà còn nói đến lý tưởng, niềm tin… thì thật xa vời và thiếu thực tế. Từ đó, họ chuyển sang lối sống thực dụng một cách triệt để, để bộc lộ những khía cạnh thấp hèn, vụ lợi, thậm chí là tàn nhẫn mà không hay. Từ lối sống thực dụng trong đời sống thường nhật đã trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến những hành vi ứng xử, ý thức, trách nhiệm trong thực thi công vụ.
Thứ ba, sự vận hành, phát triển nền kinh tế thị trường sẽ hình thành những nhóm lợi ích xấu làm biến dạng pháp luật, chính sách; làm tha hóa nghề nghiệp, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của nhiều cán bộ công chức theo đó chi phối, tác động mạnh mẽ đến đạo đức công chức trong thực hành đạo đức công vụ.
Đạo đức công vụ của đội ngũ công chức chỉ có thể phát huy, phát triển thuận lợi trong điều kiện thể chế kinh tế không ngừng được hoàn thiện theo hướng nền kinh tế thị trường mở và hội nhập với thế giới trong điều kiện được quản trị theo các nguyên tắc quản trị công bằng, công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, coi trọng lợi ích của nhân dân và các giá trị văn hóa của quốc gia, dân tộc.
Thứ tư, vấn đề cải cách nền hành chính nhà nước của các quốc gia gắn liền với xu hướng toàn cầu hóa và khu vực hóa cũng có tác động đến những thay đổi đạo đức công chức trong thực hành công vụ.
Các hình thức phi quy chế, giảm sự điều tiết và chấp nhận những cách ứng xử thống nhất trong hoạt động quản lý cũng làm cho các giá trị công vụ thay đổi. Nếu như nền hành chính truyền thống là quy tắc, quy chế, thì nền hành chính phát triển, thích ứng trong xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa phải tập trung vào sự thích ứng với môi trường quốc tế và khu vực. Năng lực, đạo đức của cán bộ công chức cũng phải thích ứng với môi trường quốc tế và khu vực, thích ứng với nền hành chính phát triển. Điều đó làm cho tư duy giá trị về công vụ cũng thay đổi.
Thứ năm, vận hành nền kinh tế thị trường với việc hình thành những mưu cầu vật chất ngày càng tăng dẫn đến sự những thay đổi trong nhận thức và hành vi của cán bộ công chức.
Công chức của nhiều nước khi chuyển sang nền kinh tế thị trường phải đối mặt với nhiều vấn đề của nền kinh tế thị trường mà trước đây không có. Vấn đề tiền lương, tiền thưởng hay phụ cấp, môi trường làm việc đều được so sánh với khu vực tư nhân và sự chênh lệch giữa hai khu vực này cũng làm cho tư duy về giá trị công vụ, công chức thay đổi biểu hiện ở nhiều phương diện khác nhau, biểu hiện rõ nét là hiện tượng “chảy máu chất xám” từ khu vực nhà nước sang khu vực tư nhân thể hiện phần nào sự thay đổi nhận thức giá trị công vụ. Bên cạnh đó cũng có hiện tượng “nhảy việc”, đó là cách thể hiện sự so sánh/chọn lựa trên cơ sở những mưu cầu vật chất/mưu cầu quyền lợi ích…điều đó chứng tỏ sự vận hành kinh tế thị trường có những tác động làm thay đổi trong nhận thức và hành vi của các chủ thể xã hội nói chung, đến nhận thức và hành vi của cán bộ công chức nói riêng.
Bài toán đặt ra cho xã hội Việt Nam hiện nay là vừa phát triển được kinh tế thị trường, vừa giữ vững được những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, vừa xây dựng được các quan hệ và phẩm chất mới phù hợp với thời đại mới của sự phát triển kinh tế - xã hội bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Hoạt động công vụ gắn với quyền lực của nhà nước, cán bộ công chức tùy theo cương vị công tác được trao một phạm vi quyền lực nhiều hay ít. Vì vậy, trong hoạt động công vụ sẽ có tác dụng trực tiếp tới đời sống xã hội nếu nó được thực hiện đúng đắn, ngược lại, nó sẽ đưa đến những hậu quả tai hại nếu hoạt động công vụ không có lương tâm, sẵn sàng chà đạp lên luật pháp để trục lợi. Xuất phát từ những vấn đề trên, Đảng, Nhà nước ta đã và đang rất chú trọng việc xây dựng, bồi dưỡng đạo đức công vụ, thông qua việc không ngừng hoàn thiện những chính sách pháp luật về công chức với mục đích cao nhất được hướng đến là xây dựng được nền công vụ là phục vụ nhân dân.
2. Nhân tố chủ quan tác động đến biến đổi đạo đức công vụ ở Việt Nam hiện nay
Bên cạnh những tác động bởi các nguyên nhân khách quan, đạo đức công vụ của cán bộ công chức ở Việt Nam hiện nay còn chịu tác động bởi các nguyên nhân chủ quan. Những nguyên nhân chủ quan tác động đến đạo đức công vụ ở Việt Nam hiện nay cơ bản gồm: Thể chế quốc gia, Thể chế quản lý hành chính; Nền hành chính; Tính kỷ luật của cán bộ công chức; Nhận thức và hành vi của cán bộ công chức; Năng lực tự giáo dục, tự rèn luyện của họ.
Một là, thể chế quốc gia là nhân tố có vai trò tác động chi phối tới chất lượng thực hành công vụ của công chức nói chung, đạo đức công vụ nói riêng.
Cương lĩnh, đường lối chính trị, chính sách của đảng cầm quyền quyết định đến việc tổ chức và vận hành thể chế, tổ chức bộ máy và cơ chế quản lý, điều hành của nhà nước. Nói đến thể chế là phải nói đến “luật chơi”, “sân chơi”, “trọng tài” và “cầu thủ”…đó là những căn cứ nền tảng cho sự tồn tại, vận hành nền hành chính nhà nước nói chung và đội ngũ cán bộ công chức thực thi quyền lực nhà nước nói riêng. Theo đó, nếu thể chế của đất nước thiếu hoàn thiện thì sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến quá trình phát triển đất nước nói chung, đến hiệu lực quản lý nhà nước và chất lượng thực thi công vụ và đạo đức công vụ của đội ngũ công chức nói riêng.
Thời gian gần đây dư luận xã hội luôn “nóng” với các vụ bắt giữ nhiều lãnh đạo doanh nghiệp lớn như Phạm Thanh Bình, Dương Chí Dũng, Nguyễn Đức Kiên, Lý Xuân Hải… hiện thực này đã phản ánh ở mức độ nhất định khía cạnh môi trường thể chế của nước ta còn chưa hoàn thiện, dễ bị doanh nhân - công chức có quyền lực lợi dụng để làm ăn phi pháp, phản văn hóa, gây thiệt hại lớn cho đất nước.
Hai là, thể chế công tác quản lý cán bộ công chức nước ta còn thiếu tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình nên chưa tạo ra môi trường lành mạnh cho sự phát triển hoàn thiện đạo đức công vụ .
Với thế mạnh là đội ngũ thực thi quyền lực công và có những lợi thế nhất định so với đội ngũ những nhân viên trong các tổ chức xã hội khác cả về lợi thế sức mạnh công quyền, về lợi thế trong tiếp cận các nguồn lực xã hội. Mặt khác, hệ thống kiểm tra, giám sát thực hành công vụ nói chung, đạo đức công vụ nói riêng còn yếu kém, bất cập nên không ngăn chặn được công chức tham nhũng quyền lực công. Trong khi nhà nước còn ít chú ý đánh giá phương diện đạo đức công vụ của họ nên đã có những hạn chế nhất định trong kiểm soát đạo đức đội ngũ công chức trong thực thi công vụ.
Ba là, nền hành chính là nhân tố tác động trực tiếp đến đạo đức công vụ của đội ngũ công chức.
Nền hành chính và lề lối làm việc, đạo đức công vụ của đội ngũ công chức quản lý nhà nước chịu sự ảnh hưởng trực tiếp từ môi trường hoạt động của nó, trước hết là từ mối quan hệ với các công dân, với công chức và chính quyền... đạo đức của cán bộ công chức trong thực thi công vụ có mối tác động qua lại, ảnh hưởng đến các quan hệ công dân, công chức và chính quyền. Nó thể hiện tính hiệu lực và sự phục vụ của hệ thống công quyền trong vận hành, phát triển xã hội. Chưa thể đòi hỏi công dân, các chủ thể xã hội khác phải hành động theo những chuẩn mực đạo đức và ứng xử văn hóa trong khi bộ phận cán bộ quản lý họ lại ứng xử thiếu văn hóa hoặc chỉ có văn hóa dưới chuẩn văn minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc nhở: cán bộ, đảng viên đi trước để làng nước, nhân dân theo sau. Nói cách khác, văn hóa chính trị, văn hóa hành chính nhà nước cần đi trước hoặc song hành với chuẩn mực đạo đức xã hội và ứng xử có văn hóa.
Nhà nước ta được xây dựng theo thể chế pháp quyền của dân, do dân, vì dân nhưng người dân muốn giải quyết được công việc hành chính của mình vẫn phải chạy vạy, xin xỏ các cán bộ công chức nắm quyền; xã hội vẫn tồn tại một lối hành xử theo một nguyên tắc ngầm định “nhất thân, nhì quen” và thứ “văn hóa phong bì” tai hại. Nguyên nhân cơ bản của tình trạng này có thể tìm thấy ngay trong sự yếu kém của đội ngũ cán bộ, trong đó có sự yếu kém về đạo đức của đội ngũ này trong thực thi công vụ. Đại hội Đảng lần thứ X chỉ ra: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ chủ chốt các cấp yếu kém cả về phẩm chất, năng lực và tinh thần trách nhiệm, vừa thiếu tính tiên phong, gương mẫu, vừa không đủ trình độ năng lực để hoàn thành nhiệm vụ”[1]. Bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân trong một số cán bộ, đảng viên có chiều hướng gia tăng; vẫn còn tình trạng “chạy chức”, “chạy quyền”, “chạy tội”, “chạy bằng cấp”.
Bốn là, tính kỷ luật của cán bộ công chức trong thực thi công vụ tác động trực tiếp đến đạo đức của đội ngũ này.
Hiện nay chúng ta vẫn chưa có những quy định cụ thể về chức năng, nhiệm vụ cho từng loại hình công việc, từng phòng ban, từng cá nhân trong tổ chức, nhất là những quy định về tính chịu trách nhiệm cá nhân. Vẫn còn tồn tại không ít hiện tượng áp đặt, quan liêu cửa quyền, tham nhũng, hối lộ, tự do vô tổ chức, tùy tiện, coi thường kỷ luật công vụ. Bên cạnh đó, công tác tổ chức cán bộ lại thể hiện những tiêu cực, yếu kém rõ rệt. Từ khâu tuyển chọn, đề bạt cán bộ chưa minh bạch, tiêu cực; đến việc đánh giá họ không cụ thể, xác đáng; việc sắp xếp chưa phù hợp chuyên môn, đúng người đúng việc. Hệ quả là giảm chất lượng đội ngũ cán bộ công chức, gây ra sự chán nản, không khuyến khích được sự cố gắng nỗ lực, tính sáng tạo trong giải quyết công việc của công chức. Về phía người lao động, việc hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ là một nguyên nhân quan trọng làm giảm tính tích cực lao động của công chức. Một bộ phận không nhỏ cán bộ công chức mới chỉ chú trọng tới lợi ích cá nhân trong hoạt động lao động. Nguyên nhân này đã dẫn tới hiệu quả giải quyết công việc thấp và hiện tượng "hành dân" để thu lợi ích cá nhân.
Năm là, nhận thức và hành vi của cá nhân cán bộ công chức giữ vai trò quan trọng đối với sự hình thành và phát triển đạo đức công vụ .
Cá nhân công chức không chỉ chịu sự tác động của hoàn cảnh một cách tiêu cực, thụ động, mà còn tích cực tác động trở lại hoàn cảnh. Trong quá trình hoạt động, khi cán bộ công chức làm biến đổi hoàn cảnh xung quanh thì bản thân cũng biến đổi và trưởng thành. Chỉ có thông qua hoạt động thực tiễn, họ mới phát triển các năng lực một cách đầy đủ, hoàn thiện, mới nhận thức được sức mạnh của mình, tiếp thu được tri thức, rèn luyện được bản thân, làm cho phẩm chất đạo đức của cá nhân nói chung, đạo đức công vụ nói riêng được phát triển toàn diện, phong phú và lành mạnh.
Sáu là, năng lực tự giáo dục, tự rèn luyện là một trong những yếu tố quan trọng tác động trực tiếp đến sự hình thành và phát triển ý thức đạo đức công vụ của đội ngũ công chức.
Trong quá trình thực thi công vụ, cán bộ công chức nhận thức được đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, yêu cầu đặt ra đối với đội ngũ công chức trong thực thi nhiệm vụ công vụ…mà mỗi cán bộ công chức có ý thức tự rèn luyện mình, bồi dưỡng mình một cách toàn diện cả về phẩm chất đạo đức, năng lực tư duy, thể lực... theo yêu cầu của xã hội, tạo cho mình một cuộc sống có lý tưởng, có ý thức giai cấp.
Những yếu tố trên đây (hoàn cảnh sống, hoạt động và tự giáo dục, rèn luyện) có quan hệ tác động lẫn nhau, trong đó hoạt động cá nhân người công nhân lao động và tự tu dưỡng có ý nghĩa trực tiếp quyết định sự hình thành và phát triển ý thức đạo đức, phát triển phẩm chất đạo đức công vụ của đội ngũ công chức.
TS.Trương Thị Phương Thảo
Đại học Vinh
[1]Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ X, Nxb CTQG 2006, tr.16
- Những đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Nghị quyết số 27-NQ/TWNCKH và đối ngoại13/11/2024
- Đạo đức công vụ và yêu cầu đặt ra đối với xây dựng đạo đức công vụ ở Việt Nam hiện nayNCKH và đối ngoại02/11/2024
- Mạng lưới các cơ sở đào tạo Luật tại Việt Nam khai mạc Hội nghị Khoa học Trẻ năm 2024Hội nghị - Hội thảo05/10/2024
- Khoa Chính trị và Báo chí tổ chức thành công buổi tọa đàm khoa học "Quản lý xung đột xã hội trong chính trị"NCKH và đối ngoại22/09/2024
- Trí tuệ nhân tạo và ảnh hưởng của nó đến xã hội đương đạiNCKH và đối ngoại09/07/2024
- Đào tạo báo chí trong kỷ nguyên số: Gắn đào tạo với thực tiễn hoạt động báo chíNCKH và đối ngoại20/06/2024
- Truyền thông chính trị trong bối cảnh chuyển đổi số ở Việt Nam hiện nay.NCKH và đối ngoại07/06/2024
- Chiến thắng Điện Biên Phủ - ý nghĩa, giá trị lịch sử và thời đạiNCKH và đối ngoại07/05/2024