TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN - BƯỚC NGOẶT TRONG LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ
MỞ ĐẦU
Trong lịch sử tư tưởng chính trị, tư tưởng về nhà nước, về thủ tiêu một chế độ xã hội lỗi thời, thay thế một thiết chế xã hội tiến bộ hơn thể hiện trong các quan điểm, học thuyết của các nhà tư tưởng là một dòng chảy liên tục từ thời cổ đại cho đến ngày nay. Nó biểu hiện bản chất và khát vọng của con người vươn tới tự do, bình đẳng, đồng thời biểu hiện lịch sử đấu tranh liên tục của các đẳng cấp, giai cấp, dân tộc bị áp bức chống các giai cấp và chế độ áp bức họ. Trong số những học thuyết, quan điểm, tư tưởng đa dạng đó, quan điểm, tư tưởng về đấu tranh giai cấp, xóa bỏ nhà nước của giai cấp tư sản, xây dựng nhà nước của giai cấp vô sản của chủ nghĩa Mác là sự kế thừa có phê phán và khắc phục hạn chế của những tư tưởng tiến bộ trong lịch sử nhân loại, qua các thời kì khác nhau, là một giai đoạn hiện đại trong lịch sử tư tưởng chính trị nhân loại với một sự kế thừa và phát triển mới.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa Mác, một thế giới quan hoàn chỉnh, một quan niệm mới về các nguyên tắc nhận thức và cải tạo thế giới, bước ngoặt cách mạng vĩ đại trong lịch sử tư tưởng chính trị. Giá trị khoa học và sức sống bền vững của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản trong trong dòng chảy của lịch sử tư tưởng chính trị của nhân loại là kết quả của quá trình hoạt động sáng tạo về lý luận và thực tiễn của C.Mác và Ph.Ăngghen.
NỘI DUNG
Trong xã hội có giai cấp, quan hệ giữa các giai cấp, thực chất là quan hệ giữa các lợi ích chính trị và các giai cấp theo đuổi để hình thành lý luận về liên minh giai cấp, đấu tranh và hợp tác các giai cấp vì yêu cầu chính trị. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, lần đầu tiên những cơ sở của chủ nghĩa Mác về đấu tranh giai cấp xóa bỏ nhà nước của giai cấp tư sản, xây dựng nhà nước của giai cấp vô sản được trình bày một cách chặt chẽ, có hệ thống cả về nội dung và hình thức. Trong Lời tựa, bản tiếng Đức xuất bản năm 1883, Ph.Ăngghen khẳng định: “Tư tưởng cơ bản và chủ đạo của “Tuyên ngôn” là: trong mọi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội - cơ cấu này phải do sản xuất kinh tế mà ra - cả hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy; do đó (từ khi chế độ công hữu ruộng đất nguyên thủy tan rã), toàn bộ lịch sử là lịch sử của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa những giai cấp bị bóc lột và những giai cấp đi bóc lột, giữa những giai cấp bị trị và những giai cấp thống trị, qua các giai đoạn của sự phát triển xã hội của họ; nhưng cuộc đấu tranh ấy hiện nay đã đến một giai đoạn mà giai cấp bị bóc lột và bị áp bức (tức là giai cấp vô sản) không còn có thể tự giải phóng khỏi tay giai cấp bóc lột và áp bức mình (tức là giai cấp tư sản) được nữa, nếu không đồng thời và vĩnh viễn giải phóng toàn thể xã hội khỏi ách bóc lột, ách áp bức và khỏi cuộc đấu tranh giai cấp,- tư tưởng cơ bản ấy hoàn toàn và tuyệt đối là của Mác” [3, tr.11-12].
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là cương lĩnh chính trị của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, ngay từ phần mở đầu Tuyên ngôn đã khẳng định rõ lý do, mục đích của Đảng Cộng sản “…phải công khai trình bày trước toàn thế giới những quan điểm, mục đích, ý đồ của mình” và Tuyên ngôn xác định “Mục đích trước mắt của những người cộng sản cũng là mục đích trước mắt của tất cả các đảng vô sản khác: tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền” [3, tr.615]. Bước tiếp theo là: “Giai cấp vô sản sẽ dùng sự thống trị chính trị của mình để từng bước một đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước, tức là trong tay giai cấp vô sản đã được tổ chức thành giai cấp thống trị, và để tăng thật nhanh số lượng những lực lượng sản xuất” [3, tr.626] và xây dựng một xã hội tương lai “… trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” [3, tr.628].
Vận dụng những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận giải một cách khoa học về quy luật phát triển khách quan của lịch sử nhân loại. Nhấn mạnh vấn đề đấu tranh giai cấp, coi đấu tranh giai cấp là “động lực trực tiếp của lịch sử” trong xã hội có giai cấp đối kháng và khẳng định cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là “đòn bẩy vĩ đại của cuộc cách mạng xã hội hiện đại”, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã khẳng định: “Lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp” [3, tr.596]. Xã hội tư bản ra đời cũng là kết quả tất yếu của sự phát triển trong mối quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp. Cái khác trong sự ra đời của chủ nghĩa tư bản đó “…là đã đơn giản hóa những đối kháng giai cấp. Xã hội ngày càng chia thành hai phe lớn thù địch với nhau, hai giai cấp lớn hoàn toàn đối lập nhau: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản” [3, tr.597].
Với sự tuân thủ nghiêm ngặt logic và hiện thực lịch sử, Tuyên ngôn đã tập trung sự phân tích vào hai giai cấp - hai giai cấp cơ bản, trung tâm trong sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản, đó là giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Với ý nghĩa là cương lĩnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã xác định cụ thể đối tượng đấu tranh trực tiếp của giai cấp vô sản trong chủ nghĩa tư bản là giai cấp tư sản. Ý nghĩa đó thể hiện bản chất cách mạng và sức sống bền vững về phương pháp luận của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản trong việc xác định đối tượng đấu tranh. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta, trên cơ sở nhận thức hai mâu thuẫn của xã hội Việt Nam đã xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Sự xác định này đã làm sáng tỏ mục tiêu phát triển của cách mạng Việt Nam. Mục tiêu đó đã trở thành cương lĩnh, lý luận, đường lối chính trị của Đảng ta và của cả dân tộc Việt Nam.
Trong điều kiện hiện nay, khi mà: “Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc” [1, tr.69]. Việc xác định đúng đối tượng đấu tranh, đối tượng hợp tác với bản lĩnh cách mạng của một đảng cầm quyền, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản mãi mãi là kim chỉ nam, phương pháp luận cho việc xác định đó.
Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã sử dụng phép biện chứng trên quan điểm duy vật để luận chứng cho sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản trên cơ sở phân tích, mổ xẻ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa - Phương thức sản xuất đã sản sinh ra hai giai cấp cơ bản của xã hội: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen xác định nguồn gốc, đặc trưng cơ bản của giai cấp vô sản với tư cách là sản phẩm của cuộc cách mạng công nghiệp và nền sản xuất công nghiệp. Cũng như các giai cấp khác trong lịch sử phát triển của xã hội, giai cấp vô sản là sản phẩm của một hoàn cảnh lịch sử cụ thể, đến xã hội tư bản: “Xã hội ngày càng chia thành hai phe lớn thù địch với nhau, hai giai cấp lớn hoàn toàn đối lập nhau: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản” [3, tr.598]. Và cùng với sự tiến triển của lich sử, giai cấp vô sản cũng phát triển với những biểu hiện và đặc trưng mới.
Trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, giai cấp vô sản và giai cấp tư sản vừa có mối quan hệ ràng buộc, vừa có quan hệ đối kháng. Quan hệ ràng buộc đó làm cho “Giai cấp tư sản, tức là tư bản, mà lớn lên thì giai cấp vô sản, giai cấp công nhân hiện đại… cũng phát triển theo”.
Như vậy, giai cấp vô sản là sản phẩm của nền đại công nghiệp. Cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp, các giai cấp khác đều dần dần bị phân hóa, suy tàn và tiêu vong, chỉ có giai cấp vô sản là lớn lên cùng với sự phát triển của công nghiệp. Từ sự phân tích đó, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đi đến kết luận “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp” [3, tr.610].
Trong điều kiện cách mạng khoa học và công nghệ hiện nay, cùng với những điều chỉnh của nhà nước tư sản, thì cơ cấu, chất lượng, số lượng của giai cấp công nhân trong mỗi nước và trên thế giới đã có nhiều thay đổi, song giá trị bền vững, ý nghĩa lịch sử về phương pháp luận khi phân tích sự ra đời, phát triển của giai cấp công nhân trong Tuyên ngôn đó là: “giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp” [3, tr.610] chỉ khác ở chỗ đó là sản phẩm của nền công nghiệp lần thứ nhất hay nền công nghiệp thứ tư hiện nay và giai cấp vô sản chủ yếu lao động bằng cơ bắp thì ngày nay giai cấp công nhân lao động chủ yếu bằng trí tuệ. Thực tiễn đã chứng minh vai trò của giai cấp công nhân trong mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội ngày càng to lớn. Với phương pháp tiếp cận đó, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản khẳng định “Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau” [3, tr.613] vẫn giữ nguyên giá trị trong lịch sử tư tưởng chính trị.
Trên cơ sở phân tích địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp vô sản trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra: “Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản bắt đầu ngay từ lúc họ mới ra đời” [3, tr.607]. Cuộc đấu tranh ấy phải trải qua một quá trình phát triển từ thấp đến cao, từ tự phát đến tự giác. Khi mà “giai cấp vô sản còn là một khối quần chúng sống tản mạn” thì cuộc đấu tranh được tiến hành riêng lẻ. Khi sự phát triển của công nghiệp “đem lại sự đoàn kết cách mạng của công nhân do liên hợp lại mà có” thì cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản có tổ chức, có quy mô và mang tính chất xung đột giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản rõ rệt hơn. Khi nền đại công nghiệp do chủ nghĩa tư bản tạo ra đòi hỏi phải thủ tiêu chế độ sở hữu tư sản thì cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản có đủ những điều kiện khách quan và chủ quan, diễn ra “... thành cách mạng công khai, mà giai cấp vô sản thiết lập sự thống trị của mình bằng cách dùng bạo lực lật đổ giai cấp tư sản”. Và “Cuộc đấu tranh giai cấp ấy hiện nay đã đến giai đoạn mà giai cấp bị bóc lột và bị áp bấc (tức là giai cấp vô sản) không còn có thể tự giải phóng khỏi tay giai cấp bóc lột và áp bức mình (tức là giai cấp tư sản) được nữa, nếu không đồng thời và vĩnh viễn giải phóng toàn xã hội khỏi ách bóc lột, áp bức và khỏi những cuộc đấu tranh giai cấp”.
Trên cơ sở phân tích sâu sắc các điều kiện xã hội, các yếu tố lịch sử, các tiền đề kinh tế, chính trị và tư tưởng, mà nhờ đó giai cấp vô sản có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Trước tiên trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đặt ra cơ sở cho quá trình kết hợp lý luận của của chủ nghĩa Mác với phong trào vô sản và sự kết hợp này giữ vai trò quyết định trong việc giai cấp vô sản tự ý thức được sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của mình. Sự ra đời của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã đánh dấu sự ra đời của một lực lượng chính trị- xã hội mới về chất - Đảng Cộng sản. Giai cấp vô sản đã có một tổ chức tiên tiến và tổ chức đó đã lãnh đạo giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh giải phóng con người, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội. Việc đặt cơ sở cho học thuyết về đảng vô sản với tư cách là người tổ chức và lãnh đạo giai cấp công nhân, đó là cống hiến vĩ đại của C.Mác và Ph.Ăngghen trong lịch sử tư tưởng chính trị.
Lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng chính trị, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã trình bày nguyên lý về mối quan hệ mật thiết giữa dân tộc và giai cấp, giữa đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã khẳng định mối quan hệ nhân - quả giữa áp bức giai cấp và áp bức dân tộc, giữa giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc: “Hãy xoá bỏ nạn người bóc lột người thì nạn dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng bị xoá bỏ. Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa, thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất theo” [3, tr.614]. Khi luận chứng về tiến trình cách mạng của giai cấp công nhân, và để bác bỏ những điều kẻ thù buộc tội những người cộng sản là muốn xoá bỏ tổ quốc, xoá bỏ dân tộc, các tác giả của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã khẳng định rõ lập trường của mình về vấn đề dân tộc: “Giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải dành lấy chính quyền, phải tự xây dựng thành một giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc, tuy hoàn toàn không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu” [3, tr.623-624].
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, khi luận chứng về sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã làm rõ sự khác nhau giữa phong trào vô sản với các phong trào khác. Phong trào vô sản không phải là phong trào của một một số ít người mưu lợi ích cho một số ít người, mà là phong trào của đông đảo nhân dân lao động vì lợi ích của tuyệt đại đa số quần chúng. “Tất cả những phong trào lịch sử, từ trước đến nay, đều là do thiểu số thực hiện, hoặc đều mưu lợi ích cho thiểu số. Phong trào vô sản là phong trào độc lập của khối đại đa số, mưu lợi ích cho khối đại đa số” [3, tr.611]. Phong trào vô sản không nhằm củng cố và duy trì chế độ sở hữu và chế độ chính trị cũ mà là nhằm xoá bỏ chế độ đó, “xóa bỏ toàn bộ phương thức chiếm hữu nói chung đã tồn tại từ trước đến nay” [3, tr.611].
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã chứng minh rằng tư¬ bản là một lực l¬ượng quốc tế, giai cấp t¬ư sản các n¬ước cấu kết với nhau để bóc lột và đàn áp phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản thế giới. Vì vậy, giai cấp vô sản cũng phải trở thành một lực lượng quốc tế. Do đó, “... trong các cuộc đấu tranh của những ng¬ười vô sản thuộc các dân tộc khác nhau, họ đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào dân tộc và chung cho toàn thể giai cấp vô sản… trong các giai đoạn khác nhau của cuộc đấu tranh giữa vô sản và tư¬ sản, họ luôn luôn đại biểu cho lợi ích của toàn bộ phong trào” [3, tr.614]. C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận chứng một cách khoa học quan điểm của giai cấp vô sản đối với việc giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế trong phong trào vô sản: “Vô sản tất cả các n¬ước đoàn kết lại”. Khẩu hiệu đó thể hiện tầm nhìn sâu sắc của C.Mác và Ph.Ăngghen trên nền tảng những quan điểm duy vật lịch sử mà hai ông đã xây dựng và là bước tiến vĩ đại trong lịch sử tư tưởng chính trị về đấu tranh giai cấp trong điều kiện chủ nghĩa tư bản.
Phong trào vô sản mang tính chất quốc tế, tuy nó thường diễn ra trong phạm vi từng nước “dù về mặt nội dung, không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu tranh dân tộc. Đương nhiên là trước hết, giai cấp vô sản mỗi nước phải thanh toán xong giai cấp tư sản nước mình đã” [3, tr.611]. Đó là những điều kiện khách quan tạo nên khả năng để giai cấp vô sản có thể gắn bó với dân tộc, đại diện cho dân tộc. Để “trở thành dân tộc” giai cấp vô sản thông qua chính đảng của họ, biến lợi ích của mình thành lợi ích dân tộc và làm cho lợi ích dân tộc thành lợi ích của chính mình.
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ, nhà nước ra đời và tồn tại, phát triển trong xã hội có giai cấp, vì thế, nhà nước trước hết và bao giờ cũng là thiết chế bảo vệ địa vị thống trị của giai cấp thống trị trong một xã hội nhất định, gắn với một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. C.Mác và Ph.Ăngghen đã cho rằng: “Quyền lực chính trị, theo đúng nghĩa của nó, là bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp một giai cấp khác. Nếu giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, nhất định phải tự tổ chức thành giai cấp, nếu giai cấp vô sản thông qua con đường cách mạng mà trở thành giai cấp thống trị và với tư cách là giai cấp thống trị, nó dùng bạo lực tiêu diệt những quan hệ sản xuất cũ, thì đồng thời với việc tiêu diệt những quan hệ sản xuất ấy, nó cũng tiêu diệt luôn cả những điều kiện tồn tại của sự đối kháng giai cấp, nó tiêu diệt các giai cấp nói chung và cũng do đấy, tiêu diệt cả sự thống trị của chính nó với tư cách là một giai cấp”[3, tr.628]. Và “Những tư tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng chỉ là những tư tưởng của giai cấp thống trị” [3, tr.625].
Với quan điểm lịch sử - cụ thể, với thái độ khoa học nghiêm túc, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định nguyên lý: “Chính những tư tưởng của các ông là sản phẩm của những quan hệ sản xuất và sở hữu tư sản, cũng như pháp quyền của các ông chỉ là ý chí của giai cấp các ông được đề lên thành luật pháp, cái ý chí mà nội dung là do những điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp các ông quyết định” [3, tr.619]. Với quan điểm đó, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản khẳng định “Cách mạng cộng sản chủ nghĩa là sự đoạn tuyệt triệt để nhất với những quan hệ sở hữu kế thừa của quá khứ; không có gì đáng ngạc nhiên khi thấy rằng trong tiến trình phát triển của nó, nó đoạn tuyệt một cách triệt để nhất với những tư tưởng kế thừa của quá khứ” [3, tr.626].
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản khi phân tích con đường và những hình thức mà giai cấp vô sản trong tiến trình xóa bỏ nhà nước của giai cấp tư sản, xây dựng nhà nước của giai cấp vô sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã vạch rõ quy luật chủ yếu của cuộc cách mạng vô sản mà bước đầu tiên của nó “là biến giai cấp vô sản thành giai cấp thống trị, là giành lấy dân chủ”, con đường phải được tiến hành bằng phương pháp bạo lực cách mạng “giai cấp vô sản thiết lập sự thống trị của mình bằng cách dùng bạo lực lật đổ giai cấp tư sản” [3, tr.612]. Tiếp đó, giai cấp vô sản dùng sự thống trị chính trị của mình để từng bước một giành lấy toàn bộ tư bản ở trong tay giai cấp tư sản, tập trung các công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước vô sản, làm tăng một cách nhanh chóng tổng số các lực lượng sản xuất. Tư tưởng xây dựng giai cấp vô sản thành giai cấp thống trị, giành lấy dân chủ, đoạt lấy toàn bộ tư bản ở trong tay giai cấp tư sản, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã khắc phục một cách triệt để tư tưởng mang tính cải lương, cơ hội trong việc xóa bỏ nhà nước của giai cấp tư sản và xây dựng nhà nước của giai cấp vô sản trong lịch sử tư tưởng chính trị.
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã sử dụng phép biện chứng trên quan điểm duy vật vào việc nhận thức những cơ sở khách quan và các nhân tố chủ quan của sự phát triển xã hội, đã phân tích sâu sắc, chính xác quá khứ, hiện tại và tương lai của xã hội, đã xây dựng quan điểm khoa học về sự phát triển của xã hội loài người. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã luận chứng một cách khoa học tiến trình phát triển của lịch sử dựa trên sự phân tích quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Vận dụng quy luật đó vào sự phân tích bản chất kinh tế - xã hội của chủ nghĩa tư bản ở thế kỷ XIX, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã vạch ra bản chất của chủ nghĩa tư bản, quy luật vận động và phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, vai trò to lớn và tính tất yếu về mặt lịch sử của chế độ tư bản. Phân tích những mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản, từ đó chứng minh xã hội tư bản nhất định sẽ bị thay thế bằng xã hội cộng sản, xã hội mà chính chủ nghĩa tư bản về khách quan đã và đang chuẩn bị những điều kiện và tiền đề cho sự thay thế đó.
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra: bước thứ nhất trong cuộc cách mạng của giai cấp vô sản là “tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền” [3, tr.615] và giai cấp vô sản giành chính quyền: “thiết lập sự thống trị của mình bằng cách dùng bạo lực lật đổ giai cấp tư sản” [3, tr.612].
Bước tiếp theo trong cuộc cách mạng của giai cấp vô sản là: “Giai cấp vô sản sẽ dùng sự thống trị chính trị của mình để từng bước một đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước, tức là trong tay giai cấp vô sản đã được tổ chức thành giai cấp thống trị, và để tăng thật nhanh số lượng những lực lượng sản xuất” [3, tr.626].
Tuyên ngôn nêu 10 biện pháp mà nhà nước của giai cấp vô sản ở những nước tiên tiến nhất có thể áp dụng để cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới. Đồng thời, C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Trong những nước khác nhau, những biện pháp ấy dĩ nhiên sẽ khác nhau rất nhiều” [3, tr.627]. Quan điểm, tư tưởng về xây dựng nhà nước của giai cấp vô sản trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản của C.Mác và Ph.Ăngghen là sự cống hiến to lớn trong lịch sử tư tưởng chính trị về sự thay đổi thiết chế xã hội phù hợp với quy luật phát triển của xã hội.
Lịch sử hơn 70 năm tồn tại, phát triển, khủng hoảng và sụp đổ của Liên Xô kéo theo sự đỗ vỡ của các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và hiện nay với sự xuất hiện các mô hình chủ nghĩa xã hội thời kỳ đổi mới: “chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc”, “chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, “chủ nghĩa xã hội ở Lào” …và trào lưu “chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” ở khu vực Mỹ La-tinh. Thực tiễn đó, đã chứng minh rằng ở đâu, lúc nào vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi nước, thì lúc đó, nơi đó chủ nghĩa xã hội thành công và phát triển. Ngược lại, ở đâu, lúc nào các nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin bị hiểu sai, vận dụng sai, rơi vào giáo điều thì nơi đó, lúc đó chủ nghĩa xã hội rơi vào trì trệ, khủng hoảng và thất bại. 25 năm sau, trong lời tựa xuất bản tiếng Đức của Tuyên ngôn, C.Mác và Ph.Ăngghen lại chỉ rõ: “bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng những nguyên lý đó cũng phải tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử”. Đó chính là giá trị bền vững về phương pháp luận, nguyên lý chỉ đạo để giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo của Đảng trong quá trình cải tại xã hội cũ và xây dựng xã hội mới phải luôn luôn sáng tạo, không rập khuôn, máy móc, giáo điều. Không có một con đường, mô hình chung cho tất cả các nước trong quá trình xây dựng xã hội mới.
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra việc xây dựng xã hội mới bằng con đường cách mạng để đạt mục đích cuối cùng: “Thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” [3, tr.628]. C.Mác và Ph.Ăngghen đã vượt qua các nhà tư tưởng chính trị trước đó và đã đặt tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa trên một cơ sở thực tiễn. Và chính thực tiễn đã cho thấy chủ nghĩa nhân đạo chỉ trở thành chủ nghĩa nhân đạo hiện thực khi nó được hình thành và phát triển dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, nơi mà sự tự do thật sự của cá nhân có được trên cơ sở việc xác lập sự hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Không thể có một quốc gia ổn định, không có bạo lực, không phải chịu bom rơi, đạn nổ, khi quốc gia đó còn sử dụng mọi phương tiện, kỹ thuật, bạo lực giáng lên đầu các dân tộc khác. Hơn nữa, trong cuộc cách mạng 4.0 hiện nay khi mà một nhóm người, một tổ chức cực đoan có thể đe dọa đến sự tồn vong của cả một vùng, thậm chí cả một quốc gia. Thực tiễn diễn ra trên thế giới hiện nay ngày càng khẳng định tính bền vững, giá trị đích thực của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản trong lịch sử tư tưởng chính trị.
KẾT LUẬN
Hơn 170 năm kể từ khi Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ra đời, cho đến nay lịch sử đã có nhiều biến đổi lớn, sự thay đổi cơ cấu kinh tế trong nền kinh tế thế giới đã dẫn đến sự biến động về kết cấu và tiến trình phát triển của giai cấp vô sản trên phạm vi thế giới, chủ nghĩa xã hội hiện thực đã trải qua bao thăng trầm, song lịch sử tiếp tục chứng minh rằng những nguyên lý cơ bản, những tư tưởng chính trị cốt lõi được trình bày trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản vẫn là ánh sáng soi đường cho nhân loại tiến về tương lai tốt đẹp của mình. Cuốn sách nhỏ ấy đúng như V.I.Lênin đã từng khẳng định “có giá trị bằng hàng bộ sách: tinh thần của nó đến bây giờ vẫn cổ vũ và thúc đẩy toàn thể giai cấp vô sản có tổ chức và đang chiến đấu của thế giới văn minh” [2, tr.10]. Đó chính là sự khẳng định sức sống bền vững, giá trị đích thực của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản trong lịch sử tư tưởng chính trị.
PGS.TS Đinh Thế Định
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[2]. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
[3]. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Một số nội dung về phương pháp sử dụng ngôn ngữ trong văn bản hành chínhKhoa Chính trị và Báo chí13/11/2024
- Khoa Chính trị và Báo chí tổ chức và tham dự thao giảng cấp khoa của TS. Nguyễn Thị Lê VinhKhoa Chính trị và Báo chí31/10/2024
- Giải bóng đá nam nữ khoa Chính trị và báo chí năm 2024Khoa Chính trị và Báo chí24/10/2024
- Lễ Phát Động Giải Chạy Dành Cho HSSV S-Race 2024Đoàn thanh niên18/10/2024
- Thông báo tuyển sinh đào tạo trình độ thạc sĩ năm 2024Đào tạo15/10/2024
- Tổ chức thành công Đại hội Đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trường KHXH&NV nhiệm kỳ 2024 - 2027Đoàn thanh niên13/10/2024
- Chào mừng Đại hội Đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh Trường Khoa học Xã hội & Nhân văn nhiệm kỳ 2024 - 2027Đoàn thanh niên10/10/2024
- Kỹ năng khai thác tài liệu trong quá trình tự học của sinh viênKhoa Chính trị và Báo chí05/10/2024