Pháp luật về trao đổi thông tin thuế xuyên biên giới đối với hoạt động hoạt động thương mại điện tử
Tác giả: Nguyễn Thị Hồng Nhật - GV khoa Luật Kinh tế - Trường KHXH&NV
Tóm tắt: Trao đổi thông tin thuế xuyên biên giới đối với hoạt động thương mại điện tử (TMĐT) có tầm quan trọng đối với pháp luật quản lý thuế (QLT). Pháp luật QLT đã có nhiều quy định nhằm nâng cao hiệu quả QLT thông qua hoạt động trao đổi thông tin này, đặc biệt là thông tin thuế xuyên biên giới. Bài viết phân tích một số khía cạnh pháp lý về trao đổi thông tin thuế xuyên biên giới trong QLT đối với hoạt động TMĐT; phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về trao đổi thông tin thuế xuyên biên giới trong QLT đối với hoạt động TMĐT và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về trao đổi thông tin thuế xuyên biên giới trong QLT đối với hoạt động TMĐT ở Việt Nam.
Từ khoá: Quản lý thuế; thông tin thuế; trao đổi thông tin thuế xuyên biên giới; thương mại điện tử
LAW ON CROSS-BORDER TAX INFORMATION EXCHANGE IN TAX ADMINISTRATION FOR E-COMMERCE ACTIVITIES
Summary: Cross-border tax information exchange for e-commerce (e-commerce) activities is an important content of tax management legislation. Tax management legislation has had many regulations to improve the effectiveness of tax management for this activity, especially regulations on cross-border tax information exchange. The article analyzes some legal theoretical issues about cross-border tax information exchange in tax management for e-commerce activities; analyzes and evaluates the current legal situation on cross-border tax information exchange in tax management for e-commerce activities and proposes some solutions to improve the legal regulations on cross-border tax information exchange in tax management for e-commerce activities in Vietnam.
Keywords: Tax management, tax information, cross-border tax information exchange, e-commerce
Đặt vấn đề
Hoạt động thương mại điện tử hiện nay được diễn ra trong một môi trường mà ranh giới địa lý ngày càng trở nên kém quan trọng. Hiện tượng toàn cầu hóa làm rút ngắn khoảng cách và lan truyền thông tin trên thế giới. Trong bối cảnh này, sự cạnh tranh toàn cầu giữa các công ty ngày càng gay gắt, đặc biệt liên quan đến việc giảm chi phí, thuế và mở rộng sang các thị trường mới. Sự di chuyển của con người và thông tin đã dẫn đến những thực tiễn cạnh tranh có hại trên toàn cầu, gây ảnh hưởng đến khả năng thực thi hiệu quả luật thuế của các quốc gia. Do đó, việc trao đổi thông tin thuế giữa các quốc gia ngày càng trở nên quan trọng và cần thiết.
Vấn đề trao đổi thông tin thuế không phải là mới hay xa lạ mà đã được các quốc gia chú trọng nhiều từ trước đến nay. Tuy nhiên, tầm quan trọng của nó vẫn tiếp tục tăng lên xuất phát từ những tiến bộ trong công nghệ, việc kinh doanh chủ yếu thay đổi từ các phương thức truyền thống sang thực hiện bằng phương tiện điện tử. Các nhà đầu tư ngày càng dễ dàng che giấu thu nhập vốn khỏi cơ quan thuế trong nước bằng cách tiếp cận các khu vực pháp lý nước ngoài đưa ra mức thuế suất thấp hoặc bằng 0 và không báo cáo số tiền thu được cho cơ quan thuế trong nước. Nếu như trước đây, nước Mỹ từng hô khẩu hiệu: “Không đánh thuế nếu không có đại diện” thì trong bối cảnh TMĐT phát triển toàn cầu như hiện nay, khẩu hiệu đó phải là: “Không đánh thuế, nếu không có thông tin”. Do đó, trao đổi thông tin thuế giữa các quốc gia trong hoạt động TMĐT là thực sự cần thiết để nâng cao hiệu quả QLT đối với hoạt động này.
1. Khái quát chung về trao đổi thông tin thuế xuyên biên giới trong quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử
1.1. Khái niệm trao đổi thông tin thuế trong quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử
- Khái niệm thông tin thuế trong hoạt động thương mại điện tử
Từ trước đến nay, một số thuật ngữ thường được sử dụng khi nói đế thông tin thuế như: “thông tin thuế”, “thông tin người nộp thuế”. Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), thông tin thuế được hiểu là:
Thông tin thuế được trao đổi bao gồm tên của người nộp thuế, mã số thuế do quốc gia cư trú ấn định, địa chỉ tạm thời và thường trú của người nộp thuế, loại và số thu nhập kiếm được trong kỳ cũng như thông tin chi tiết về người nộp thuế trong nguồn, quốc gia. Ngoài ra, các mục khác như thông tin về tài sản tài chính, bất động sản, hoàn thuế giá trị gia tăng, v.v., có thể được đề cập .
Theo quy định trên, thông tin thuế bao gồm các thông tin của người nộp thuế như: Tên, mã số thuế, địa chỉ thường trú, tạm trú, thông tin về thu nhập trong kỳ và cả những thông tin khác liên quan đến tài chính, bất động sản, nghĩa vụ thuế của người nộp thuế.
Pháp luật Quản lý thuế Việt Nam không sử dụng thuật ngữ “thông tin thuế” mà sử dụng thuật ngữ “thông tin người nộp thuế”. Theo đó, thông tin người nộp thuế theo Luật Quản lý thuế năm 2019 bao gồm: “Thông tin về người nộp thuế và thông tin liên quan đến nghĩa vụ thuế của người nộp thuế do người nộp thuế cung cấp, do cơ quan quản lý thuế thu thập được trong quá trình quản lý thuế” . Như vậy, có thể hiểu thông tin về người nộp thuế sẽ bao gồm những thông tin chung về người nộp thuế và thông tin lên quan đến nghĩa vụ thuế của người nộp thuế. Thông tin cần thiết liên quan đến nghĩa vụ thuế phụ thuộc vào bản chất của thuế. Ví dụ, đối với thuế thu nhập sẽ bao gồm: Báo cáo lãi suất và thu nhập vốn khác nhận được (cổ tức, tiền bản quyền và tiền thuê); thông tin về thu nhập việc làm; cơ cấu quyền sở hữu để xác định người thụ hưởng cuối cùng của các khoản thanh toán đó; thông tin về các khoản chi được khấu trừ tại quốc gia cư trú; và thông tin về các khoản thanh toán cũng như danh tính của người thụ hưởng. Yêu cầu thông tin cũng có thể liên quan đến các giao dịch cụ thể như: Giá cả, chi phí và hoa hồng để cho phép quốc gia cư trú xác định nghĩa vụ thuế . Như vậy, “thông tin thuế” hay “thông tin người nộp thuế” đều bao gồm những thông tin liên quan đến “thuế” nhằm xác định nghĩa vụ của người nộp thuế.
Riêng đối với hoạt động TMĐT, đây là hoạt động “sử dụng đến các phương tiện và công nghệ điện tử để tiến hành hoạt động thương mại” . Với những đặc trưng của hoạt động TMĐT là được thực hiện trên không gian ảo, dễ dàng xoá dấu vết. Do đó, những thông tin thuế liên quan đến hoạt động này cần được phối hợp, chia sẻ kịp thời giữa các quốc gia.
Thông tin của người nộp thuế nói chung, thông tin của người nộp thuế thực hiện hoạt động TMĐT nói riêng là thông tin có độ nhạy cảm cao, việc chia sẻ thông tin dựa trên các yêu cầu cụ thể nhằm đảm bảo bí mật và sử dụng phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế cũng như các quy định pháp luật trong nước.
Pháp luật Việt Nam hiện hành không có quy định tách bạch về hoạt động TMĐT và hoạt động thương mại truyền thống. Do đó, thông tin người nộp thuế đối với hoạt động TMĐT cũng bao gồm thông tin về người nộp thuế và thông tin liên quan đến nghĩa vụ thuế của người nộp thuế thực hiện hoạt động TMĐT. Trong đó, những thông tin để xác định được nghĩa vụ thuế của người nộp thuế thực hiện hoạt động TMĐT cũng bao gồm các thông tin về tài sản, thu nhập, các giao dịch thực hiện, thông tin về các khoản thanh toán,…
- Khái niệm trao đổi thông tin thuế xuyên biên giới
Theo Từ điển Tiếng Việt, hiểu một cách khái quát, trao đổi là “chuyển qua lại cho nhau những vật tương đương nào đó” . Trao đổi thông tin (EOI) thuế là hoạt động chia sẻ thông tin vì mục đích thuế giữa các chủ thể với nhau. Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế, trao đổi thông tin xuyên biên giới được hiểu là:
Trao đổi thông tin xuyên biên giới là hoạt động xuyên biên giới trong việc chia sẻ thông tin vì mục đích thuế giữa các cơ quan QLT nhằm phát hiện và ngăn chặn hành vi trốn thuế, để đảm bảo việc áp dụng đúng thẩm quyền của luật thuế quốc gia và các hiệp định tránh đánh thuế hai lần (Double Taxation Conventions - DTC) cũng như thúc đẩy việc tuân thủ thuế trong nước .
Cơ sở cho việc trao đổi thông tin về thuế xuất phát từ việc, nhiều quốc gia cho rằng “các quốc gia này không từ bỏ bất kỳ chủ quyền quốc gia nào khi đánh thuế cư dân của mình mà chỉ đơn giản là giúp đỡ những quốc gia khác thực hiện chủ quyền của mình trong việc đánh thuế công dân của họ, đổi lại nhận được lợi ích tương ứng” . Trao đổi thông tin xuyên biên giới là vấn đề có đi có lại. Trong quá trình thực hiện EOI, một trong những yêu cầu đặt ra là phải có sự trao đổi qua lại thông tin đầy đủ, nếu một quốc gia tự động nhận được thông tin, thì quốc gia đó cần phải đáp lại quốc gia đã gửi thông tin. Tuy nhiên, loại thông tin được trao đổi không nhất thiết phải có tính chất tương hỗ. Ví dụ: Quốc gia A có thể quan tâm đến thông tin về thu nhập từ lãi, trong khi quốc gia B có thể muốn nhận thông tin về thu nhập từ cổ tức. Các hiệp định song phương và đa phương thuế về trao đổi thông tin tạo thành luật ràng buộc, quy định cụ thể các quyền và nghĩa vụ của các chính phủ ký kết.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu trao đổi thông tin thuế xuyên biên giới trong hoạt động TMĐT là việc chia sẻ thông tin thuế giữa các quốc gia với nhau nhằm phát hiện và ngăn chặn các hành vi trốn thuế trong hoạt động này. Việc trao đổi thông tin thuế trong hoạt động TMĐT phải đảm bảo chính xác, kịp thời. Ngoài ra, cung cấp thông tin cho cơ quan thuế nước ngoài phải theo đúng phạm vi quy định tại các hiệp định thuế nhưng không trái với quy định của pháp luật Việt Nam.
Xét dưới góc độ kinh tế, trao đổi thông tin thuế xuyên biên giới trong hoạt động TMĐT là hoạt động chia sẻ thông tin thuế giữa các quốc gia, qua đó các quốc gia đạt được một số lợi ích như giảm thiểu việc trốn, tránh thuế xuyên biên giới và góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Dưới góc độ pháp lý, trao đổi thông tin thuế xuyên biên giới là những thoả thuận pháp lý song phương, đa phương về trao đổi thông tin thuế giữa các quốc gia với nhau. Những thoả thuận này tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện trao đổi thông tin giữa các quốc gia, đảm bảo việc trao đổi, cung cấp thông tin trong hoạt động TMĐT được thực hiện chính xác, kịp thời.
Như vậy, có thể thấy trao đổi thông tin và hợp tác quốc tế là lựa chọn quan trọng trong xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý cho quản lý thuế đối với hoạt động TMĐT. Do chính sách TMĐT xuyên biên giới kéo theo việc giao thương giữa các quốc gia, mà mỗi quốc gia có hệ thống luật pháp và cơ chế quản lý khác nhau, nên cần thiết lập một cơ chế hợp tác thương mại thống nhất thông qua trao đổi và hợp tác lẫn nhau. Hiện nay, các quốc gia cần có những cơ chế hợp tác song phương, đa phương liên quan đến TMĐT xuyên biên giới. Điều này sẽ cho phép tăng cơ hội cho các doanh nghiệp TMĐT xuyên biên giới mở rộng ra toàn cầu.
1.2. Điều kiện chia sẻ thông tin thuế xuyên biên giới trong hoạt động thương mại điện tử
Để đạt được sự trao đổi thông tin thuế đầy đủ giữa cơ quan thuế các quốc gia đối với quản lý thuế trong hoạt động TMĐT nói riêng, quản lý thuế nói chung, thoả thuận mẫu về trao đổi thông tin về các vấn đề về thuế (mô hình TIEA) của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đã quy định một số nội dung, yêu cầu, thủ tục trao đổi thông tin thuế xuyên biên giới. Thoả thuận này là công cụ đầu tiên xác định tiêu chuẩn của OECD về trao đổi thông tin và minh bạch tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi thông tin giữa các quốc gia. Thông qua thoả thuận mẫu TIEA, có thể rút ra một số điều kiện chia sẻ thông tin thuế xuyên biên giới đối với hoạt động TMĐT đó là:
Thứ nhất, cơ quan thuế quốc gia phải có quyền hợp pháp để chia sẻ với cơ quan thuế của quốc gia khác về những thông tin thuế mà họ có quyền truy cập
Quyền hợp pháp được chia sẻ thông tin của cơ quan thuế các nước thường gắn liền với cơ sở pháp lý cụ thể. Chẳng hạn, các quốc gia thường ký kết các hiệp định tránh đánh thuế hai lần, hay các thoả thuận về trao đổi thông tin để có cơ sở hợp pháp cho việc chia sẻ thông tin của quốc gia mình. Thỏa thuận TIEA của OECD là công cụ đầu tiên xác định tiêu chuẩn của OECD về trao đổi thông tin và minh bạch với mục tiêu tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi thông tin giữa các bên tham gia TIEA. Thoả thuận này đặc biệt cho phép trao đổi thông tin giữa các quốc gia không có hiệp định đánh thuế hai lần và chủ yếu tập trung vào các khu vực pháp lý có thuế thu nhập thấp hoặc không có thuế (thường được gọi là “thiên đường thuế”) .
Quy định về quyền hợp pháp chia sẻ thông tin của các quốc gia cũng gắn liền với vấn đề bảo mật thông tin thuế được chia sẻ. Do vấn đề bảo mật, các quốc gia thường không thể cung cấp thông tin cụ thể của người nộp thuế nếu không có công cụ pháp lý cho phép tiết lộ những thông tin đó. Nhằm nâng cao tính bảo mật, pháp luật thường quy định thông tin chỉ có thể được sử dụng cho mục đích thuế và chỉ được tiết lộ cho các cơ quan có thẩm quyền liên quan đến việc tính toán và thu các khoản thuế theo các hiệp định được ký kết. Một số quốc gia như Hà Lan, Đức, Thuỵ Điển, trước khi trả lời yêu cầu cung cấp thông tin từ quốc gia khác, cơ quan thuế phải thông báo cho người nộp thuế quốc gia đó (trừ trường hợp gian lận thuế) .
Ở Việt Nam, quyền hợp pháp chia sẻ thông tin thể hiện trong Luật Quản lý thuế năm 2019. Theo đó, cơ quan quản lý thuế có trách nhiệm “tổ chức khai thác, trao đổi thông tin và hợp tác nghiệp vụ với cơ quan quản lý thuế nước ngoài, các tổ chức quốc tế có liên quan. Trao đổi thông tin về người nộp thuế, thông tin về các bên liên kết với cơ quan thuế nước ngoài phục vụ công tác quản lý thuế đối với giao dịch liên kết” . Ngoài ra, trong các Hiệp định song phương và đa phương mà Việt Nam ký kết cũng có các quy định liên quan đến trao đổi, cung cấp thông tin về thuế. Chẳng hạn, Điều 26 Hiệp định giữa Việt Nam – Trung Hoa năm 1996 quy định: “Nhà chức trách có thẩm quyền của hai nước ký kết sẽ trao đổi với nhau những thông tin cần thiết cho việc triển khai thực hiện những quy định của Hiệp định” …
Thứ hai, cơ quan thuế cần có quyền thu thập thông tin liên quan đến thuế từ các tổ chức tài chính trong nước và các bên thứ ba khác. Điều này thể hiện, trong thoả thuận TIEA của OECD quy định về nghĩa vụ trong thủ tục trao đổi thông tin. Theo đó, các quốc gia phải thực hiện mọi biện pháp thu thập thông tin liên quan, để cung cấp thông tin được yêu cầu. Trường hợp thông tin được yêu cầu không có sẵn đối với cơ quan thuế, quốc gia được yêu cầu phải sử dụng các biện pháp thu thập thông tin của mình để lấy thông tin từ người nộp thuế hoặc bên thứ ba . Đồng thời, phạm vi thông tin mà bên được yêu cầu phải cố gắng thu thập và cung cấp bao gồm: Thông tin do ngân hàng, tổ chức tài chính khác nắm giữ; thông tin về quyền sở hữu liên quan đến các vấn đề khác nhau.
Ở Việt Nam, quyền thu thập thông tin của cơ quan QLT gắn liền với trách nhiệm cung cấp thông tin của các chủ thể. Theo quy định tại Điều 98 Luật Quản lý thuế năm 2019, trách nhiệm cung cấp thông tin của cá nhân, cơ quan, tổ chức được chia thành hai trường hợp: (1) Cung cấp thường xuyên thông tin người nộp thuế và (2) cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan QLT. Pháp luật quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc cung cấp thông tin thường xuyên và cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan QLT. Theo đó, cơ quan QLT cần có quyền thu thập thông tin từ các tổ chức tài chính trong nước và bên thứ ba khác thì mới có thể nắm bắt thông tin một cách chính xác và có đầy đủ thông tin chia sẻ cho cơ quan thuế nước ngoài.
Thứ ba, cơ quan quản lý thuế cần xây dựng hệ thống thông tin đáng tin cậy, hệ thống dữ liệu lớn để lưu trữ thông tin thuế đầy đủ, chi tiết nhằm thực hiện việc chia sẻ một cách kịp thời. Đây là điều kiện cần thiết trong bối cảnh thời đại công nghệ 4.0 và cũng xem là điều kiện cần thiết để QLT đối với hoạt động TMĐT. Nếu như trước đây, các dữ liệu được lưu trữ, chia sẻ dưới hình thức văn bản giấy thông thường, thì trong thời đại công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ như hiện nay, dữ liệu, thông tin thuế có thể chia sẻ, truyền đi bằng các phương tiện điện tử. Do đó, cần có hệ thống lưu trữ dữ liệu tốt, đảm bảo quy trình bảo mật, xử lý thông tin và lưu trữ đầy đủ và trao đổi một cách kịp thời thông tin về người nộp thuế.
1.3. Hình thức trao đổi thông tin xuyên biên giới trong quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử
Việc trao đổi thông tin có nhiều hình thức khác nhau, bao gồm: Trao đổi thông tin theo yêu cầu, trao đổi thông tin tự phát và trao đổi thông tin tự động . Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế là tổ chức có lịch sử lâu dài về tất cả các hình thức trao đổi thông tin. Điều 26 của Công ước thuế mẫu của OECD (MTC) cung cấp cơ sở cho cả ba hình thức trao đổi thông tin nói trên. Điều 26 của MTC OECD được cập nhật lần đầu tiên vào tháng 7 năm 2005, trong đó làm rõ rằng “một quốc gia không thể từ chối yêu cầu cung cấp thông tin chỉ vì quốc gia đó không có lợi ích về thuế trong nước đối với thông tin đó hoặc chỉ vì thông tin đó được nắm giữ bởi một ngân hàng hoặc tổ chức tài chính khác” . Trong hoạt động TMĐT, việc trao đổi thông tin cũng có thể lựa chọn các hình thức nói trên.
Thứ nhất, trao đổi thông tin theo yêu cầu (EOIR). Đây là hình thức trao đổi thông tin phổ biến cho đến hiện nay. Theo đó, trao đổi thông tin thuế theo yêu cầu đối với hoạt động TMĐT thể hiểu là “việc trao đổi thông tin dựa trên yêu cầu cụ thể được đưa ra bởi một khu vực pháp lý này với khu vực pháp lý khác” hoặc giữa một chủ thể này với một chủ thể khác có thực hiện hoạt động thương mại điện tử. Trao đổi thông tin theo yêu cầu chỉ được thực hiện khi có yêu cầu cung cấp thông tin của một quốc gia khác. Từ trước đến nay, các quốc gia thường chủ yếu trao đổi thông tin khi có yêu cầu. Tuy nhiên, hình thức trao đổi thông tin này sẽ có nhiều điểm chưa thực sự tối ưu trong thực hiện trao đổi thông tin đối với hoạt động TMĐT, khi mà hoạt động này ngày càng diễn ra thường xuyên, nhanh chóng trên toàn cầu.
Thứ hai, trao đổi thông tin tự phát (SEOI) là quá trình trao đổi thông tin một cách tự phát không theo yêu cầu của một quốc gia nào. Trao đổi thông tin tự phát xuất hiện khi cơ quan thuế phát hiện được những thông tin chi tiết về thu nhập hoặc một giao dịch có thể phải chịu thuế ở khu vực tài phán khác nhưng có thể chưa nộp thuế. Theo By M. Keen, J.E. Ligthart, trao đổi thông tin tự phát đối với hoạt động TMĐT là hình thức trong đó các cơ quan có thẩm quyền của một quốc gia, chuyển thông tin thuế đối với hoạt động TMĐT có thể thu được trong quá trình kiểm toán mà họ cho rằng có thể được cơ quan thuế của quốc gia khác quan tâm .
Việc trao đổi thông tin tự phát giúp các quốc gia phát hiện được hành vi trốn thuế và ngăn chặn các hành vi đó kịp thời. Đặc biệt, trong hoạt động TMĐT, các giao dịch phát sinh nhanh chóng thường không để lại dấu vết, việc phát hiện và trao đổi thông tin thuế đối với các trường hợp này là hết sức cần thiết.
Thứ ba, trao đổi thông tin tự động (AEOI). Đây là hình thức trao đổi thông tin được diễn ra thường xuyên. Theo đó, trao đổi thông tin tự động có nghĩa là việc truyền tải một cách có hệ thống và thường xuyên thông tin “số lượng lớn” của người nộp thuế từ quốc gia nguồn đến quốc gia cư trú liên quan đến các loại thu nhập khác nhau” (ví dụ: cổ tức, tiền lãi, v.v.) . Trao đổi thông tin tự động buộc các tổ chức tài chính nơi người không cư trú mở tài khoản ngân hàng phải cung cấp cho cơ quan thuế không chỉ thông tin liên quan đến tất cả các loại thu nhập đầu tư (tiền lãi, cổ tức, thu nhập từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và thu nhập tương tự khác), mà còn cả số dư và thu nhập từ việc bán tài sản tài chính. Cơ quan thuế tiếp nhận thông tin, xác nhận và có trách nhiệm chuyển thông tin cho cơ quan thuế đối tác. Trao đổi tự động thường được sử dụng cho thông tin số lượng lớn và nhằm mục đích cải thiện sự tuân thủ và phát hiện gian lận trong hoạt động TMĐT. Như vậy, có thể hiểu trao đổi thông tin tự động trong hoạt động TMĐT là cơ quan thuế của một quốc gia định kỳ chuyển cho quốc gia cư trú khác những thông tin liên quan đến thuế trong hoạt động TMĐT mà các bên đã đồng ý trao đổi theo những hình thức và phương thức nhất định. Hình thức trao đổi thông tin này có thể xem là xu thế mới về trao đổi thông tin trên toàn cầu và đặc biệt phù hợp với hoạt động TMĐT. Các thông tin thuế liên quan đến hoạt động TMĐT cần được lưu trữ và chia sẻ một cách tự động, đảm bảo cơ quan thuế có thể có các dữ liệu về người nộp thuế đối với hoạt động này và quản lý một cách có hiệu quả.
2. Thực trạng pháp luật về trao đổi thông tin thuế xuyên biên giới trong quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử ở Việt Nam
2.1. Những kết quả đạt được về pháp luật trao đổi thông tin thuế xuyên biên giới trong quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử
Những kết quả đạt được thời gian qua đối với pháp luật về trao đổi thông tin thuế trong QLT đối với hoạt động TMĐT và thực tiễn thực hiện hoạt động này thể hiện như sau:
Thứ nhất, để có cơ sở pháp lý cho việc trao đổi thông tin, thời gian vừa qua cơ quan có thẩm quyền đã ban hành một số văn bản quy định về trao đổi thông tin thuế. Cụ thể, ngày 11 tháng 5 năm 2011 Tổng cục Thuế ban hành Quyết định 583/QĐ-TCT về việc ban hành quy chế trao đổi thông tin theo Hiệp định tránh đánh thuế hai lần. Theo đó, quyết định quy định nguyên tắc trao đổi thông tin, loại thông tin trao đổi, và quy trình trao đổi cung cấp thông tin. Các quy định này tạo cơ sở cho việc trao đổi thông tin với cơ quan thuế nước ngoài theo các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần mà Việt Nam tham gia ký kết. Ngoài ra, Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 được ban hành ngày 13 tháng 6 năm 2019 cũng bổ sung quy định hợp tác quốc tế về thuế của cơ quan QLT, trong đó quy định phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý thuế trong trao đổi thông tin về thuế giữa cơ quan thuế của Việt Nam và cơ quan thuế các quốc gia khác . Quy định về hợp tác trao đổi thông tin thuế là một nội dung quan trọng để xây dựng hệ thống thuế công bằng, minh bạch và hiệu quả hơn trong bối cảnh TMĐT phát triển mạnh mẽ. Việc trao đổi thông tin thuế giữa các quốc gia tạo ra một môi trường hợp tác quốc tế tốt hơn trong đó các quốc gia phối hợp quản lý thuế đối với hoạt động TMĐT và chống các hành vi vi phạm pháp luật thuế.
Thứ hai, pháp luật quản lý thuế đã có những quy định mang tính định hướng, thể hiện nội dung hợp tác quốc tế về trao đổi thông tin trong quản lý thuế đối với hoạt động TMĐT. Theo đó, Điều 12 Luật Quản lý thuế năm 2019 quy định cơ quan QLT có trách nhiệm: “Tham mưu giúp Bộ trưởng Bộ Tài chính đề xuất đàm phán, ký kết … theo các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; đàm phán, ký kết và tổ chức thực hiện thỏa thuận song phương, đa phương với cơ quan quản lý thuế nước ngoài”; …Như vậy, trao đổi thông tin về thuế đối với hoạt động TMĐT là một nội dung quan trọng trong hợp tác quốc tế về QLT đối với hoạt động TMĐT. Điều này thể hiện vai trò của các cơ quan chức năng trong việc tổ chức đàm phán, ký kết các hiệp định thuế song phương và đa phương.
Một số kết quả đạt được trong việc tổ chức đàm phán, ký kết các hiệp định thuế song phương và đa phương đó là: Thời gian qua Việt Nam đã tham gia ký kết, tổ chức thực hiện nhiều thoả thuận song phương, đa phương về thuế, tham gia vào các diễn đàn toàn cầu về thuế. Cụ thể, tháng 12/2019 Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 159 của Diễn đàn toàn cầu về minh bạch và trao đổi thông tin về thuế (GF). Việc trở thành thành viên của GF là cơ sở để Việt Nam tiến tới ký Hiệp định đa phương về hỗ trợ hành chính thuế (MAAC), để củng cố khuôn khổ pháp lý và mở rộng trao đổi thông tin về thuế, tiến tới trao đổi thông tin tự động. Hay tháng 3/2023 vừa qua, Việt Nam tham gia ký kết Hiệp định đa phương về hỗ trợ hành chính thuế. Đây là một khuôn khổ pháp lý quốc tế đa phương toàn diện nhất quy định các hình thức hợp tác quốc tế về hành chính thuế như: Trao đổi thông tin về thuế (trao đổi theo yêu cầu, tự đông, tự nguyện); kiểm tra thuế; hỗ trợ thu hồi nợ thuế;…Hiệp định hỗ trợ các quốc gia thành viên trong việc chống trốn thuế, tránh thuế quốc tế thông qua việc áp dụng các công cụ pháp lý quốc tế để trao đổi thông tin. Có thể thấy, Hiệp định MAAC giúp các nước thành viên thực thi tốt hơn các luật thuế của mình. Các quốc gia thành viên thông qua việc áp dụng các công cụ pháp lý quốc tế để trao đổi thông tin thuế và hợp tác về hành chính thuế để từ đó chống trốn, và tránh thuế quốc tế và các hình thức không tuân thủ khác.
Thứ hai, trong các hiệp định song phương, đa phương mà Việt Nam tham gia ký kết, đã có các điều khoản quy định về cung cấp, trao đổi thông tin giữa cơ quan thuế các nước. Cụ thể, tính đến ngày 10/10/2022, Việt Nam đã ký 80 Hiệp định thuế với các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó có 76 Hiệp định thuế đã có hiệu lực. Điểm chung là trong các hiệp định thuế đã ký kết đều có điều khoản về trao đổi thông tin (thường là Điều 26 hoặc 27 của các Hiệp định thuế). Chẳng hạn, Điều 25 Hiệp định giữa Việt Nam – Nhật Bản năm 1995 quy định: “Nhà chức trách có thẩm quyền của hai nước ký kết sẽ trao đổi với nhau những thông tin cần thiết cho việc triển khai thực hiện những quy định của Hiệp định”; “Việc trao đổi thông tin sẽ không bị giới hạn”; “Mọi thông tin do một Nước ký kết nhận được sẽ được giữ bí mật giống như thông tin thu nhận theo các luật trong nước của Nước ký kết này . Những thông tin được trao đổi được xem là cần thiết để ngăn chặn việc trốn, lậu thuế dành cho mục đích QLT đối với hoạt động TMĐT. Việc trao đổi thông tin được diễn ra theo yêu cầu của các nước tham gia kí kết, và phải thỏa mãn điều kiện: “Không được trái với pháp luật trong nước và hiệp định ký kết; việc cung cấp thông tin tập trung qua Tổng cục Thuế (Vụ hợp tác quốc tế)” .
Trong thời gian vừa qua, cơ quan thuế Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả tốt trong quá trình hợp tác, trao đổi thông tin với cơ quan thuế các nước. Cụ thể, Tổng cục Thuế đã trao đổi thông tin đối với 57 trường hợp với cơ quan thuế của 17 nước (Nhật Bản, Hàn Quốc, Ba Lan, Campuchia, Hồng Kông, Trung Quốc, Nga, Singapore, Ấn Độ, UAE, Ailen, Slovenia, Latvia, Pháp, Đức, Đài Loan, Lào) trong năm 2021. Trong đó, 36 trường hợp Việt Nam yêu cầu nước ngoài cung cấp thông tin, 18 trường hợp nước ngoài yêu cầu Việt Nam cung cấp thông tin và 3 trường hợp trao đổi thông tin tự động .
2.2. Những hạn chế về pháp luật trao đổi thông tin thuế xuyên biên giới trong quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, pháp luật về trao đổi thông tin trong QLT đối với hoạt động TMĐT và thực tiễn thi hành hoạt động này còn có nhiều điểm bất cập, cụ thể:
Thứ nhất, pháp luật trao đổi cung cấp thông tin về QLT đối với hoạt động TMĐT chưa quy định rõ những thông tin nào được trao đổi tự động, thông tin trao đổi tự nguyện và thông tin trao đổi theo yêu cầu. Hầu hết các thoả thuận trao đổi thông tin thuế song phương chỉ quy định trao đổi theo yêu cầu và không cho phép trao đổi tự nguyện hoặc tự phát. Trao đổi thông tin hiệu quả là một trong những yếu tố then chốt trong việc xác định các hành vi đánh thuế tập thể. Trong các hiệp định song phương mà Việt Nam ký kết giữa các quốc gia, mới chỉ có quy định chung về điều khoản trao đổi thông tin. Những quy định cụ thể về trao đổi thông tin thì cần dẫn chiếu thêm pháp luật trong nước. Trong khi đó, pháp luật QLT trong nước chưa có quy định cụ thể về vấn đề này.
Thứ hai, pháp luật trao đổi cung cấp thông tin về QLT đối với hoạt động TMĐT chưa quy định rõ quy trình cung cấp, trao đổi thông tin. Quy trình cung cấp, trao đổi thông tin cần được quy định cụ thể đối với các hình thức trao đổi thông tin như trao đổi thông tin theo yêu cầu, trao đổi thông tin tự phát và trao đổi thông tin tự nguyện. Quy trình cung cấp, trao đổi thông tin là điều cần thiết để đảm bảo quá trình trao đổi thông tin được diễn ra thuận lợi, hạn chế những sai sót trong quá trình trao đổi thông tin cũng như đảm bảo vấn đề bảo mật, an toàn của thông tin được chia sẻ.
Thứ ba, pháp luật trao đổi cung cấp thông tin về QLT đối với hoạt động TMĐT chưa quy định rõ các phương thức cung cấp, trao đổi thông tin.
Sự phát triển của công nghệ thông tin giúp các cơ quan quản lý Nhà nước sử dụng và trao đổi thông tin thuế hiệu quả và ít tốn kém hơn. Điều này có thể dễ dàng nhận ra, khi trước đây các hồ sơ thuế được lưu trữ, sử dụng dưới dạng bản giấy. Nếu một cơ quan nước ngoài yêu cầu cung cấp thông tin, việc xác định, sao chép và gửi thông tin thuế qua biên giới có thể gặp khó khăn và tốn kém. Hiện nay, công việc này đã thuận lợi hơn do các hồ sơ thuế đã được số hoá. Với một hoặc hai cú nhấp chuột, các hồ sơ có thể được truy xuất từ cơ sở dữ liệu của Chính phủ, sao chép và chuyển đến cơ quan Chính phủ khác ở bất kỳ đâu trên thế giới. Tuy nhiên, việc trao đổi thông tin dễ dàng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro nếu pháp luật không có quy định cụ thể. Pháp luật QLT hiện nay mới chỉ có một số quy định chung về trao đổi thông tin nhưng chưa quy định rõ thông tin được trao đổi dưới hình thức nào (bằng văn bản giấy, hay thông qua các phương tiện điện tử) và nếu trao đổi thông qua các hình thức đó thì quy trình trao đổi thông tin như thế nào.
Thứ tư, pháp luật trao đổi cung cấp thông tin về QLT đối với hoạt động TMĐT chưa được quy định cụ thể, đặc biệt là các quy định về bảo mật thông tin. Quy định này cũng cần gắn liền với các quy định về trao đổi thông tin và thực sự cần thiết. Trong các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần Việt Nam ký kết với các quốc gia, mặc dù đưa ra điều khoản về trao đổi thông tin, nhưng những quy định này mang tính chất chung chung và dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật trong nước. Chẳng hạn, “mọi thông tin do một Nước ký kết nhận được sẽ giữ bí mật giống như thông tin thu nhận theo các luật trong nước của Nước ký kết này…” . Trong khi đó, pháp luật quốc gia cũng chỉ quy định các vấn đề về bảo mật thông tin một cách chung chung, chưa cụ thể. Pháp luật chưa quy định các thông tin cần bảo mật là thông tin nào, cơ quan nào chịu trách nhiệm chính trong bảo mật thông tin, các chế tài xử lý khi vi phạm bảo mật thông tin. Pháp luật cũng chưa quy định rõ những thông tin nào là những thông tin được coi là “bí mật tại nước gửi thông tin”. Chẳng hạn, Điều 25 Hiệp định Việt Nam - Nhật Bản nêu rõ: “Nếu thông tin đó ban đầu được coi là bí mật tại Nước gửi thông tin thì thông tin đó sẽ chỉ được cung cấp cho các đối tượng hay các cơ quan chức trách… có liên quan đến việc tính toán, thu, cưỡng chế hay truy tố hoặc xác định các khiếu nại về các loại thuế mà Hiệp định này áp dụng”. Pháp luật QLT trong nước chưa có các điều khoản cụ thể về thông tin người nộp thuế và những thông tin cần bảo mật. Điều này gây khó khăn cho cơ quan chức năng trong quá trình thực hiện.
Ở một số quốc gia trên thế giới, thông tin về ngân hàng là những thông tin cần bảo vệ nghiêm ngặt và nhiều quốc gia miễn cưỡng trao đổi những thông tin như vậy. Ví dụ: “Áo, Bỉ, Thuỵ sĩ,… là những quốc gia có truyền thống nghiêm ngặt về bảo mật ngân hàng” . Hiện nay, có thể những thông tin về ngân hàng không còn là trở ngại cho việc trao đổi thông tin xuyên biên giới nữa, nhưng những thông tin nào cần bảo mật pháp luật cũng cần phải quy định cụ thể. Chẳng hạn, những thông tin về mậu dịch, kinh doanh, công nghiệp, thương mại hay bí mật nghề nghiệp hoặc các phương thức kinh doanh cũng được xem là những thông tin bí mật hạn chế tiết lộ.
Thực tiễn thực hiện hoạt động này cho thấy, trong thời gian qua, việc trao đổi, cung cấp thông tin với cơ quan thuế nước ngoài là không dễ dàng, khả năng tìm tiếng nói chung thấp, bởi quốc gia nào cũng có tâm lý bảo vệ quyền lợi cho người nộp thuế của nước mình. Chưa kể đến nhiều thông tin cơ quan thuế nước ngoài sẽ không cung cấp vì liên quan đến bí mật về mậu dịch, thương mại, công nghiệp, thương nghiệp hay bí mật nghề nghiệp hoặc các phương thức kinh doanh của quốc gia đó. Quy trình kiểm tra, cung cấp thông tin còn phức tạp. Bên cạnh đó, hoạt động trao đổi thông tin giữa cơ quan thuế Việt Nam với cơ quan thuế các nước còn chưa kịp thời. Nhiều trường hợp thông tin từ cơ quan thuế Việt Nam gửi đi không có phản hồi, việc trao đổi thông tin vẫn còn hạn chế. Trên thực tế, số vụ việc yêu cầu cơ quan thuế Việt Nam cung cấp thông tin thường nhiều hơn số vụ việc mà cơ quan thuế nước ngoài cung cấp.
Có thể thấy, những tiến bộ trong công nghệ đã làm cho việc truyền tải thông tin ngày càng dễ dàng. Nhiều quốc gia hiện nay tự động truyền thông tin thuế cho các quốc gia khác dưới dạng điện tử. Vấn đề thực sự là liệu nước tiếp nhận có thể tận dụng tối đa thông tin này hay không. Mặc dù có lẽ là đơn giản đối với các yêu cầu cụ thể, nhưng việc khớp thông tin nhận được với hồ sơ của chính quốc gia đó có thể sẽ không dễ dàng nếu không có mã số nhận dạng người nộp thuế chung giữa các quốc gia . Hơn nữa, các cá nhân có thể che giấu nơi cư trú của họ vì mục đích thuế bằng cách cung cấp một định danh sai.
Nhìn từ kinh nghiệm trao đổi thông tin một số quốc gia trên thế giới, các quốc gia cho phép cơ quan thuế trao đổi thông tin theo các hiệp định thuế. Một số quốc gia yêu cầu thông tin người nộp thuế không cư trú phải được thu thập theo quy định. Ví dụ ở Hoa Kỳ, yêu cầu các ngân hàng và các trung gian đủ điều kiện thanh toán khác thu thập thông tin về các khoản thanh toán lãi cho các chủ sở hữu Canada trong các khoản đầu tư thuộc danh mục đầu tư của Hoa Kỳ nhằm mục đích chia sẻ thông tin. Các quốc gia khác cũng thông qua luật cho phép cơ quan thuế của họ yêu cầu người nộp thuế cư trú cung cấp cho họ tờ khai thuế và các thông tin khác mà họ cung cấp cho cơ quan thuế nước ngoài .
Với sự phát triển nhanh chóng của TMĐT và biên giới quốc gia dần bị xóa bỏ, do đó, tính tương thích là một trong những tiêu chí đầu tiên được xem xét khi hoàn thiện pháp luật QLT với TMĐT ở nhiều quốc gia. Ủy ban Luật Thương mại Liên hợp quốc (UNCITRAL) đã chỉ ra trong hướng dẫn về Quy tắc thống nhất trong chữ ký điện tử rằng: “Tính quốc tế vốn có của TMĐT đòi hỏi phải thiết lập một hệ thống pháp lý thống nhất và tình trạng pháp lý hiện hành ở các quốc gia khác nhau” . Vì vậy, không chỉ riêng Việt Nam mà nhiều quốc gia khác trên thế giới đều nỗ lực xây dựng hệ thống pháp lý thống nhất để điều chỉnh vấn đề QLT đối với hoạt động TMĐT. Một số quốc gia như Trung Quốc cũng đã đẩy nhanh tốc độ tham vấn, hợp tác thuế với các nước, tổ chức trong lĩnh vực TMĐT nhằm đạt được nhiều thuận lợi trong hội nhập chính sách và thúc đẩy lẫn nhau với các quốc gia khác trên thế giới. Một số ý kiến cho rằng cần thành lập các “Diễn đàn hợp tác thuế”. Các nhóm quốc gia khác nhau có thể hình thành các Diễn đàn hợp tác thuế khác nhau .
Từ những phân tích trên, có thể thấy một số hạn chế trong vấn đề hợp tác quốc tế về thuế trong hoạt động thương mại điện tử đó là: Pháp luật quản lý thuế về hợp tác quốc tế trong QLT đối với hoạt động TMĐT chưa được quy định cụ thể về các vấn đề như trách nhiệm bảo mật thông tin, những thông tin nào cần bảo mật hạn chế chia sẻ đối với cơ quan thuế các nước; chưa có quy định về thủ tục trao đổi thông tin, quy trình trao đổi thông tin cũng như quy định về hình thức trao đổi thông tin. Điều này dẫn đến việc thực hiện hoạt động hợp tác quốc tế về trao đổi thông tin thuế trong hoạt động TMĐT trên thực tiễn còn gặp nhiều khó khăn.
3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện trao đổi thông tin thuế xuyên biên giới trong quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử ở Việt Nam
Như đã phân tích và đánh giá ở mục 2 các quy định pháp luật hiện hành về trao đổi thông tin thuế trong QLT đối với hoạt động TMĐT đã có những quy định mang tính định hướng về trao đổi thông tin giữa các cơ quan quản lý trong nước cũng như giữa cơ quan QLT trong nước với cơ quan QLT nước ngoài trong QLT đối với hoạt động TMĐT. Bên cạnh đó, các quy định pháp luật về trao đổi thông tin thuế trong QLT đối với hoạt động TMĐT vẫn còn một số điểm hạn chế như: Pháp luật cũng chưa có quy định cụ thể về phương thức trao đổi thông tin, quy trình cung cấp thông tin giữa các cơ quan quản lý Nhà nước và giữa cơ quan QLT các quốc gia với nhau trong hợp tác quốc tế về thuế đối với TMĐT. Các quy định trên đang áp dụng chung cho hoạt động thương mại truyền thống cũng như hoạt động TMĐT. Trong khi đó, hoạt động TMĐT là hoạt động đặc thù, cần có những quy định riêng để áp dụng nhằm nâng cao hiệu quả QLT đối với hoạt động này. Từ đó, một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật chủ thể QLT đối với hoạt động TMĐT cũng như nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật QLT đối với hoạt động TMĐT được đặt ra cụ thể như sau:
Thứ nhất, pháp luật QLT đối với hoạt động TMĐT cần bổ sung những quy định về các hình thức trao đổi thông tin. Theo đó cần quy định rõ những thông tin nào được trao đổi tự động, thông tin trao đổi tự nguyện và thông tin trao đổi theo yêu cầu. Hình thức này có thể áp dụng cho trao đổi thông tin trong nước cũng như trao đổi thông tin thuế với cơ quan thuế nước ngoài. Có thể tham khảo kinh nghiệm một số quốc gia: Luxembourg đã chọn áp dụng ban đầu việc trao đổi thông tin tự động về ba trong số năm danh mục cụ thể là thu nhập từ việc làm, lương hưu và thù lao của giám đốc; peQuốc gia khác như Bulgaria là một quốc gia thành viên EU đã áp dụng Chỉ thị của Hội đồng Châu Âu EU về việc trao đổi thông tin tự động bắt buộc trong lĩnh vực thuế. Theo đó, cơ quan thuế Bulgaria sẽ có thể lấy thông tin về tài sản thuộc sở hữu của cư dân Bulgaria (bao gồm cả các cấu trúc như quỹ tín thác hoặc quỹ) trong một tổ chức tài chính đặt tại một quốc gia đã ký một thỏa thuận trao đổi tự động .
Thứ hai, pháp luật QLT đối với hoạt động TMĐT cần bổ sung những quy định về quy trình trao đổi thông tin đối với các hình thức trao đổi thông tin, cụ thể:
- Đối với hình thức trao đổi thông tin thuế đối với hoạt động TMĐT theo yêu cầu pháp luật QLT cần đặt ra những tiêu chuẩn quy định rằng “thông tin được yêu cầu phải có liên quan rõ ràng đến việc quản lý thuế và thực thi luật thuế trong nước của quốc gia yêu cầu” cũng như của chủ thể yêu cầu. Thông tin được yêu cầu có thể liên quan đến việc kiểm tra, truy vấn hoặc điều tra nghĩa vụ thuế của người nộp thuế trong những năm tính thuế cụ thể. Có thể tham khảo quy trình gửi yêu cầu cung cấp thông tin theo mẫu của OECD giữa các quốc gia có thoả thuận trao đổi thông tin theo bảng sau :
Nguồn: Quy trình trao đổi thông tin theo yêu cầu của OECD
Quy trình trao đổi thông tin như trên gồm nhiều bước khác nhau, từ việc tiếp nhận thông tin yêu cầu của các cơ quan có thẩm quyền, xác thực thông tin yêu cầu (kiểm tra xem yêu cầu đó có phù hợp hay không, có cơ chế pháp lý nào không và cơ sở để bắt đầu trao đổi), thu thập thông tin điện tử và cuối cùng là việc tiếp nhận thông tin của kiểm toán viên thuế. Ngoài ra, cũng cần quy định thêm về thời gian cung cấp thông tin. Tránh những trường hợp thông tin cần yêu cầu cung cấp nhưng mất nhiều thời gian mới được cung cấp thông tin dẫn đến hiệu quả không được như kỳ vọng.
- Đối với trao đổi thông tin thuế đối với hoạt động TMĐT tự phát, pháp luật cần đặt ra những quy định liên quan đến trao đổi thông tin tự phát, quy trình tiếp nhận thông tin và xử lý thông tin tự phát này như thế nào. Quy định quy trình trao đổi thông tin tự phát có thể gồm các bước: (1) Gửi trao đổi thông tin tự phát; (2) Nhận được sự trao đổi thông tin tự phát. Trong đó, ở các bước cần cụ thể các quy trình khi nhận được thông tin và xử lý thông tin nhận được.
- Đối với trao đổi thông tin tự động trong hoạt động TMĐT, pháp luật cũng cần quy định thêm về quy trình trao đổi thông tin đối với hình thức này. Mục đích của quy định này nhằm làm giảm thiểu những thủ tục hành chính rườm rà trong quá trình trao đổi thông tin. Đồng thời, các quy định cần đảm bảo an toàn, bí mật thông tin thuế đối với hoạt động TMĐT được chia sẻ. Thông tin thuế trong hoạt động TMĐT được trao đổi tự động, thường được thu thập ở trạng thái nguồn một cách thường xuyên. Trao đổi thông tin tự động cho phép cơ quan thuế tại quốc gia cư trú của người nộp thuế kiểm tra hồ sơ thuế để xác minh rằng người nộp thuế đã báo cáo chính xác thu nhập từ nguồn nước ngoài của họ.
Có thể tham khảo Báo cáo của OECD về trao đổi thông tin thuế tự động chia quá trình trao đổi thông tin tự động này thành bảy bước sau: (1) Thu thập thông tin từ người nộp thuế; (2) Báo cáo thông tin cho cơ quan thuế; (3) Cơ quan thuế tổng hợp thông tin theo quốc gia nơi cư trú; (4) Thông tin được mã hóa và gửi đến cơ quan thuế nước cư trú; (5) Thông tin được nhận và giải mã; (6) Quốc gia cư trú cung cấp thông tin liên quan vào quy trình đối sánh tự động hoặc thủ công; (7) Quốc gia cư trú phân tích kết quả và thực hiện hành động tuân thủ nếu thích hợp .
Ngoài ra, có thể tham khảo kinh nghiệm của quốc gia Bulgaria, chẳng hạn việc áp dụng trao đổi tự động thông tin tài chính với các cơ quan tài phán nước ngoài có liên quan đòi hỏi phải áp dụng các “thủ tục thẩm định, kiểm soát tài khoản tài chính và thu thập thông tin với các chi tiết và yếu tố cụ thể” từ khách hàng khi mở tài khoản ở mọi quốc gia Bulgaria.
Đặc biệt, trong quan hệ hợp tác quốc tế về thuế đối với hoạt động TMĐT, trong các Hiệp định song phương mà Việt Nam tham gia ký kết cần bổ sung các quy định hình thức trao đổi thông tin. Nhấn mạnh hình thức trao đổi thông tin tự động nhằm tăng cường kết nối, chia sẻ thông tin giữa các cơ quan thuế của các quốc gia. Có thể thấy rằng, thông tin được truyền đi có thể cung cấp thông tin kịp thời về việc không tuân thủ khi trốn thuế, trên lợi tức đầu tư hoặc trên cơ sở tổng vốn, ngay cả khi cơ quan quản lý thuế không có dấu hiệu không tuân thủ. Việc trao đổi thông tin đóng vai trò trung tâm trong cuộc chiến chống trốn thuế, trao đổi thông tin để trở thành chuẩn mực chứ không phải là ngoại lệ.
Để thực hiện được việc trao đổi thông tin tự động, cơ quan quản lý thuế cần xây dựng kho dữ liệu (Big Data). Kho dữ liệu này có đầy đủ thông tin cần thiết về các chủ thể thực hiện hoạt động TMĐT như sàn TMĐT, website bán hàng, trang mạng xã hội và có chức năng tích hợp, kết nối chia sẻ thông tin với cơ sở dữ liệu của các Bộ, ngành chức năng. Tuy nhiên, pháp luật cần xây dựng các quy trình để kiểm soát việc trao đổi thông tin một cách chặt chẽ. Chẳng hạn, cơ quan có thẩm quyền quản lý, quyền truy cập kho dữ liệu thông tin, cách thức truy cập, giới hạn truy cập,…
Như vậy, trao đổi tự động đạt được rất nhiều lợi ích, đây được xem là một công cụ để chống lại sự không tuân thủ ở nước ngoài. Trao đổi thông tin tự động đối với hoạt động TMĐT có thể cung cấp thông tin kịp thời về việc không tuân thủ trong trường hợp trốn thuế đối với lợi tức đầu tư hoặc số vốn cơ bản. Nó có thể giúp phát hiện các trường hợp không tuân thủ ngay cả khi cơ quan QLT không có dấu hiệu trước đó. Các lợi ích khác bao gồm tác dụng ngăn chặn, tăng cường tuân thủ tự nguyện và khuyến khích người nộp thuế báo cáo tất cả thông tin thuế liên quan đến thu nhập từ nguồn nước ngoài cho quốc gia cư trú của họ. Hoàn thiện các quy định pháp luật về quy trình trao đổi thông tin tự động đối với hoạt động TMĐT nói riêng, trao đổi thông tin nói chung là vấn đề quan trọng trong hợp tác quốc tế về thuế đối với hoạt động TMĐT nhằm nâng cao hiệu quả QLT đối với hoạt động này.
Thứ ba, pháp luật QLT cần bổ sung những quy định về phương thức trao đổi thông tin đối với hoạt động TMĐT. Việc trao đổi thông tin có thể thực hiện thông qua nhiều phương thức khác nhau. Đối với trao đổi thông tin thuế trong hoạt động TMĐT, phương thức phù hợp là trao đổi thông qua các phương tiện điện tử. Chẳng hạn, pháp luật có thể quy định việc sử dụng địa chỉ email chung để liên lạc, chỉ những người được ủy quyền nhận thông tin trao đổi theo thỏa thuận mới có thể truy cập hộp thư có bảo vệ bằng mật khẩu. Việc truyền tải điện tử phải được bảo đảm bằng một hình thức mã hóa thích hợp. Ví dụ: “Các tệp có thể được mã hóa bên trong kho lưu trữ ZIP” . Thông tin và các yêu cầu gửi đến phải được phân loại hợp lý và lưu trữ an toàn. Cơ quan có thẩm quyền phải thực hiện các bước để đảm bảo rằng việc sử dụng và tiết lộ thông tin đó tuân thủ thỏa thuận EOI hiện hành. Do đó, đơn vị trao đổi thông tin phải có các công cụ, tổ chức và đào tạo cần thiết để mã hóa và giải mã thông tin bất cứ khi nào thông tin được trao đổi điện tử, từ đó bảo vệ và tăng cường tính bảo mật của thông tin được trao đổi với các đối tác hiệp ước khác.
Thứ tư, pháp luật QLT cần có các quy định về bảo mật thông tin thuế. Cụ thể, pháp luật cần đặt ra những quy định nhằm làm rõ trách nhiệm cụ thể của các cơ quan, tổ chức trong việc bảo mật thông tin của người nộp thuế đối với hoạt động TMĐT; những quy định để kiểm soát hệ thống thông tin người nộp thuế trong hoạt động TMĐT cụ thể; bổ sung các chế tài xử lý vi phạm về cung cấp thông tin, bảo mật thông tin cuả người nộp thuế đối với hoạt động TMĐT. Chẳng hạn, đưa ra các hình phạt hành chính hoặc hình sự đối với những người hoặc cơ quan có thẩm quyền tiết lộ thông tin bí mật một cách không thích hợp. Pháp luật QLT cần bổ sung các quy định yêu cầu cơ quan quản lý thuế phải có kế hoạch liên quan đến việc truy cập, lưu giữ và xử lý thông tin bí mật một cách an toàn, cả đối với tài liệu bản cứng và điện tử.
Có thể tham khảo Hướng dẫn của Diễn đàn Toàn cầu và OECD về “Bảo vệ quyền bảo mật thông tin được trao đổi vì mục đích thuế” và “Bộ công cụ quản lý bảo mật và bảo mật thông tin ”. Những hướng dẫn này đưa ra các biện pháp thực hành tốt nhất liên quan đến bảo mật và cung cấp hướng dẫn thực tế về cách đáp ứng mức độ bảo vệ thích hợp đồng thời thừa nhận rằng các cơ quan QLT khác nhau có thể có những cách tiếp cận khác nhau để đảm bảo rằng trên thực tế họ đạt được mức độ cần thiết để bảo vệ bí mật thông tin một cách hiệu quả.
Ngoài ra, pháp luật QLT trong nước cần bổ sung những quy định nhằm cung cấp đầy đủ cơ sở pháp lý cho việc áp dụng các biện pháp thu thập thông tin để có được thông tin yêu cầu. Đồng thời, bổ sung các biện pháp trừng phạt khi yêu cầu này không được đáp ứng.
Bên cạnh việc hoàn thiện các quy định pháp luật nêu trên, để tăng cường hợp tác trao đổi thông tin trong quản lý thuế đối với hoạt động TMĐT, đặc biệt là hợp tác quốc tế trong QLT đối với hoạt động này, một số giải pháp được đặt ra, cụ thể:
Thứ nhất, Việt Nam tăng cường tham gia vào các diễn đàn hợp tác thuế quốc tế, học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia đi đầu về TMĐT. Tập trung đàm phán ký kết Hiệp định song phương với các quốc gia chưa ký hiệp định thuế mà có phát sinh mối quan hệ kinh tế thương mại với Việt Nam đồng thời đàm phán các nghị định thư sửa đổi, bổ sung các hiệp định thuế đã ký kết. Việt Nam cũng cần tiến hành “đàm phán và ký kết các Hiệp định thuế đa phương thì mới giải quyết được các vấn đề mà hiệp định thuế song phương không giải quyết được trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu mới với sự phát triển của kinh tế số” .
Thứ hai, cơ quan thuế cần tập trung nghiên cứu áp dụng công nghệ thông tin hiện đại vào quy trình trao đổi thông tin trong QLT đối với hoạt động TMĐT. Internet là phương tiện tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi thông tin diễn ra một cách nhanh chóng, phù hợp với thực hiện các hoạt động TMĐT. Bên cạnh đó, cơ quan thuế cũng cần tăng cường bồi dưỡng, đào tạo các cán bộ để có thêm kinh nghiệm, kỹ năng QLT trong lĩnh vực này.
Kết luận
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ hiện nay, các quốc gia riêng lẻ không thể đánh thuế chéo một cách hiệu quả. Những thách thức này xuất phát từ bản chất toàn cầu của TMĐT và sự không phù hợp về lãnh thổ và trật tự, vốn là trụ cột của chế độ thuế quốc tế hiện hành. Tham gia ký kết các Hiệp định song phương và đa phương về thuế thời gian qua cho thấy Việt Nam đã nỗ lực rất nhiều trong hợp tác quốc tế và trao đổi thông tin thuế xuyên biên giới đối với hoạt động TMĐT. Tuy nhiên, các quy định pháp luật về trao đổi thông tin thuế xuyên biên giới trong QLT đối với hoạt động TMĐT vẫn còn nhiều điểm bất cập, dẫn đến việc thực hiện trao đổi thông tin thuế trong hoạt động TMĐT đạt hiệu quả chưa cao. Do đó, hoàn thiện các quy định pháp luật QLT về trao đổi thông tin thuế để đảm bảo tương thích với chế độ thuế quốc tế cũng như các đặc điểm của TMĐT nhằm nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong QLT đối với hoạt động này.
Bài viết được đăng tại Tạp chí Pháp luật và Phát triển, số tháng 10/2024.
https://phapluatphattrien.vn/tap-chi-phap-luat-va-phat-trien--so-10-2024-magazine17.html#gallery-55
- Vấn đề xây dựng văn hóa công sở ở Việt Nam hiện nayKhoa Chính trị và Báo chí26/03/2025
- Giới thiệu 2 Ngành Đào tạo trình độ Đại học tại Khoa Luật học - Trường KHXH&NV năm 2025Đào tạo26/03/2025
- Tọa đàm Ngày Công tác xã hội Việt Nam 25/3Đào tạo25/03/2025
- Chúc mừng Ngày Công tác xã hội Việt NamĐào tạo24/03/2025
- Thư chúc mừng Ngày Công tác xã hội Việt Nam 25/3 của Bộ trưởng Bộ Y tế gửiĐào tạo24/03/2025
- Quy định của pháp luật Việt Nam về cầm cố tài sản và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luậtNghiên cứu khoa học24/03/2025
- Nâng cao công tác Truyền thông chính sách trong chuyển đổi số quốc giaKhoa Chính trị và Báo chí19/03/2025
- Trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm về nghiên cứu khoa họcNghiên cứu khoa học19/03/2025