Cập nhật quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn giáo trong nghiên cứu và giảng dạy lý luận chính trị
MỞ ĐẦU
Lý luận chính trị là tên gọi chung của các môn khoa học thuộc nền tảng tư tưởng của Đảng, bao gồm các môn lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam,... Giảng dạy lý luận chính trị ở các trường đại học hiện nay giữ vai trò rất quan trọng trong việc tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; xây dựng, bồi đắp nền tảng tư tưởng, hình thành phẩm chất, nhân cách, đạo đức cách mạng cho sinh viên, góp phần quyết định chất lượng giáo dục và đào tạo. Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội và nó không tách rời khỏi đời sống chính trị. Ở Việt Nam nhiều bậc danh tăng, tu sĩ được đào tạo thành những hiền tài, nguyên khí quốc gia. Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo đã góp phần tạo nên diện mạo một một nền văn hóa và con người Việt Nam giàu bản sắc, một đường lối chính trị lấy dân làm gốc, một chính sách khoan thư sức dân, một nếp sống tôn ti trật tự từ trong gia đình đến ngoài xã hội, một phong cách kiến trúc, hội họa, thi ca, âm nhạc... Trong suốt quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng, Nhà nước ta luôn nhất quán chính sách tôn trọng, đảm bảo và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Chính sách đó được xây dựng dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tự do tín ngưỡng, tôn giáo và ngày càng có sự bổ sung, hoàn thiện để phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các nhà khoa học ngày càng trao đổi nhiều hơn việc phát huy các nguồn lực của tôn giáo để phát triển đất nước. Trong bối cảnh đó, những người làm công tác nghiên cứu và giảng dạy lý luận chính trị có những thuận lợi lớn trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Đồng thời, đội ngũ này cũng cần xác định được những thách thức để vượt qua, ví dụ như việc nghiên cứu và giảng dạy của mình cần có sự cập nhật và truyền tải được đến người đọc, người học… tinh thần đổi mới, sáng tạo; nội dung khoa học, có tính khái quát kịp thời thực tiễn sinh động trong các quan điểm, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Có thể xem đây là một trong những yếu tố góp phần hoàn thành mục tiêu xây dựng được nguồn nhân lực chất lượng cao, có kiến thức chuyên môn vững vàng và những phẩm chất chính trị, đạo đức, kỹ năng và lý tưởng sống cao đẹp.
NỘI DUNG
1. Sự cần thiết của việc cập nhật quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn giáo trong nghiên cứu và giảng dạy lý luận chính trị
Trong lý luận của mình, V.I.Lênin khẳng định: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”, “chỉ đảng nào có được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong” [10, tr.30,32]. Nhận thức sâu sắc quan điểm này, Đảng cộng sản Việt Nam đã không ngừng nâng cao trình độ lý luận, trí tuệ, trung thành và bảo vệ nền tảng tư tưởng của mình. Hơn 92 năm qua, Đảng ta đã tiến hành 13 kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc, có 3 Cương lĩnh về cách mạng dân tộc dân chủ và 1 Cương lĩnh về xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (Bổ sung, phát triển năm 2011). Theo tiến trình lịch sử, mỗi Cương lĩnh của Đảng chứa đựng những giá trị, ý nghĩa lớn lao riêng và cần được tuyên truyền đến quần chúng nhân dân, để lý luận có thể thâm nhập, dẫn đường và chỉ đạo thực tiễn. Trong các trường học nói chung, các trường đại học nói riêng việc cập nhật về đường lối và chính sách của Đảng trong nghiên cứu và giảng dạy mang tính tất yếu. Điều này có ý nghĩa lớn trong việc trang bị thế giới quan và phương pháp luận khoa học, đồng thời bồi dưỡng tư tưởng chính trị, đạo đức cho người học, góp phần xây dựng nền tảng ý thức, tinh thần xã hội nói chung.
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, xét về bản chất, Ph. Ăngghen cho rằng: Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc của con người, của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế. Nguồn gốc của tôn giáo nằm trong tồn tại xã hội, trong quan hệ giữa người với tự nhiên và trong các quan hệ xã hội. Trong suốt quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng và Nhà nước luôn tôn trọng, đảm bảo, bảo vệ nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân và quan tâm đến đời sống của đồng bào có đạo trong xã hội. Đường lối, chính sách, pháp luật vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước được ban hành là có tính nhất quán và kết quả của quá trình nghiên cứu khoa học hết sức nghiêm túc, cầu thị để từng bước hoàn thiện, tiến tới xây dựng một môi trường ổn định và đồng thuận, nhân dân đoàn kết gắn bó. Nói như vậy để thấy được rằng, đường lối, chính sách, pháp luật tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta là lý luận của một tập thể tiên phong, có trách nhiệm lớn lao và thực sự nghiêm túc trong nghiên cứu để vận dụng vào thực tiễn, thực hiện đại đoàn kết dân tộc nhằm hiện thực hoá mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Chúng ta cũng nhận thấy rằng, xã hội ở các giai đoạn lịch sử khác nhau, sự tồn tại của tôn giáo là tất yếu và mọi nhà nước đều rất quan tâm đến lĩnh vực này.
Xét về phương diện thế giới quan, có thể thấy thế giới quan duy vật Mácxít và thế giới quan tôn giáo có sự đối lập nhau. Nhưng bởi tính nhân văn, cách mạng, khoa học trong lý luận của mình mà những người cộng sản không bao giờ có thái độ xem thường hoặc trấn áp những nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo hợp pháp của nhân dân. Ngược lại, chủ nghĩa Mác - Lênin và những người cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân. Lênin từng nói với đại ý rằng, không nên tuyên chiến với tôn giáo bởi điều đó đồng nghĩa với tự sát. Vi phạm nguyên tắc này là cố tình đẩy xã hội tới chỗ phân chia, đẩy những người có đạo tới chỗ chống chính quyền, là không thấy được chức năng liên kết xã hội của tôn giáo và đi ngược lại dân chủ xã hội chủ nghĩa, vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, quyền tự do theo hay không theo một tôn giáo, là chệch với mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Đối với Việt Nam, từ năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị ban hành chính sách “Tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết”. Xuyên suốt qua các thời kỳ, Đảng và Nhà nước luôn khẳng định các tôn giáo đều tồn tại trong lòng dân tộc, lợi ích của từng tôn giáo gắn với lợi ích của dân tộc. Quan điểm này không những góp phần làm thất bại mọi âm mưu phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc của các thế lực thù địch, mà còn từng bước nhận diện, phát huy các nguồn lực tôn giáo vào sự phát triển đất nước nhanh và bền vững.
Ở một khía cạnh khác, trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở các trường đại học, việc nghiên cứu giảng dạy và học tập lý luận được coi trọng. Chuyển biến này là vô cùng ý nghĩa, dẫn đến chất lượng học tập được nâng cao cả về thời lượng lẫn chất lượng; việc cụ thể hóa lý luận được coi trọng, nhiều bài giảng hay thu hút được sự quan tâm, chú ý, tích cực học tập của người học. Điều khích lệ lớn cho những ai làm công tác nghiên cứu, giảng dạy lý luận ở các trường đại học là xã hội và người học ngày càng coi trọng các tri thức lý luận, suy ngẫm nhiều hơn để có thể hình thành được một thế giới quan, nhân sinh quan tích cực, phù hợp để thúc đẩy bản thân trong cuộc sống luôn biến động. Kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng nhấn mạnh rằng không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng. Mà lý luận chỉ có ý nghĩa khi liên hệ với thực tiễn. Ở khía cạnh cụ thể, khi nghiên cứu, giảng dạy về lý luận, chúng ta không thể bỏ qua các nội dung liên quan đến tôn giáo - Một vấn đề được xem là nhạy cảm, một nội dung có thể liên hệ và kết nối với tình hình thực tiễn sinh động.
2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn giáo trước năm 2003
Quá trình phát triển nhận thức của Đảng về tôn giáo được thể hiện qua các thời kỳ. Năm 2003 là một mốc thời gian quan trọng, có ý nghĩa lớn trong quá trình này khi Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết 25-NQ/TW ngày 12/3/2003. Đây là Nghị quyết riêng về công tác tôn giáo, vấn đề tôn giáo.
Trước khi Nghị quyết 25-NQ/TW được ban hành, Đảng và Nhà nước đã khẳng định và luôn nhất quán chính sách tôn trọng, đảm bảo và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Đường lối, chính sách đó được xây dựng dựa trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tự do tín ngưỡng, tôn giáo, và ngày càng có sự bổ sung, hoàn thiện để phù hợp với từng giai đoạn lịch sử của đất nước.
Theo C.Mác, tôn giáo là một sản phẩm của lịch sử. Mặc dù không trình bày những hình thái biến đổi cụ thể của tôn giáo trong lịch sử, nhưng Mác lại nêu lên những vấn đề mang tính phương pháp luận để xem xét các hình thái tôn giáo, với câu nói nổi tiếng: “Con người sáng tạo ra tôn giáo, chứ tôn giáo không sáng tạo ra con người... Nhưng con người không phải là một sinh vật trừu tượng, ẩn náu đâu đó ở ngoài thế giới. Con người chính là thế giới con người, là nhà nước, là xã hội. Nhà nước ấy, xã hội ấy sản sinh ra tôn giáo” [2, tr.569]. Khi bàn về tôn giáo phương Đông, C.Mác chỉ ra quyền sở hữu tối cao nằm trong tay một người sở hữu duy nhất: “Cái nhân tố duy nhất - một phần là kẻ chuyên chế thực sự, một phần là ông thần tưởng tượng của bộ lạc” [2, tr.569] mà ta thường gọi là ông con trời (thiên tử) hay ông vua - thần cai quản cả phần hồn và phần xác, cả cộng đồng người sống và người chết trong lãnh thổ mà ông cai quản.
C.Mác cho rằng, tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội. Để có sự tác động tích cực, phù hợp trở lại tồn tại xã hội, phải có sự phê phán đối tôn giáo và đây là bước khởi đầu, là một bộ phận trong hoạt động đấu tranh chính trị và sáng tạo khoa học, để xây dựng nền triết học mới là chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng. Bản thân tôn giáo chứa đựng nhiều tiêu cực, nó xoa dịu nỗi đau con người bằng thứ thuốc an thần hư ảo chứ không đề ra được giải pháp đúng đắn, khoa học để xoá bỏ những bất công xã hội, chỉ khuyên con người sống nhẫn nhục và chấp nhận. Bởi thế C.Mác dự báo, ở xã hội văn minh, khi con người được vũ trang bằng sức mạnh của khoa học cùng với niềm tin vào bản thân thì lúc đó tôn giáo sẽ tự tiêu vong. Tuy nhiên, C.Mác khuyến nghị rằng, chúng ta không nên vận dụng một cách máy móc chủ nghĩa duy vật lịch sử vào việc nghiên cứu tôn giáo.
Nhận thức sâu sắc những quan điểm trên, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chính sách tôn trọng, đảm bảo và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam được khẳng định và nhất quán thực hiện nhằm tạo nên sự đồng thuận, đoàn kết trong toàn xã hội. Tuy nhiên, để tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước, Đảng ta khẳng định “phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hoá là nền tảng tinh thần.” [5, tr.324]; khẳng định tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng của đất nước, cho nên cần “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị văn hoá, sưc mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế… nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam.” [5, tr.336]. Có thể nói, đây là nhận thức đúng đắn về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó có hình thái ý thức tôn giáo.
Khi nghiên cứu và phát triển quan điểm về tôn giáo của học thuyết Mác, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: Tôn giáo là hiện tượng có tính lịch sử, xã hội và văn hoá, tham gia vào quá trình sáng tạo văn hoá nhân loại. Người viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát triển đó tức là văn hoá” [7, tr.458]. Như vậy, ở đây Người đã đề cập đến tôn giáo với tư cách là một trong những sáng tạo của con người.
Thực tiễn trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, vấn đề tôn giáo đã được chú ý đến trong các tác phẩm Đường Kách mệnh, Chính cương, Sách lược Vắn tắt (1930), Luận cương Chính trị (1930). Trong thời kỳ này, những người cách mạng Việt Nam tập trung tư duy, ý thức và hành động để có được thắng lợi trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, chống chủ nghĩa thực dân. Tuy vậy, có không ít nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam đã có được những quan điểm đúng đắn vượt trội về tôn giáo, điều mà trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế lúc đó không phải Đảng Cộng sản nào cũng có được.
Trong phiên họp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà cần tuyên bố tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết. Trên cơ sở đó, bản Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã xác định “quyền tự do tín ngưỡng” là một trong các quyền cơ bản của công dân. Với việc công nhận quyền tự do tín ngưỡng của công dân, bản Hiến pháp này đã trở thành cơ sở pháp lý cho việc thực hiện chính sách đối với tôn giáo ở nước ta.
Tiếp đến, ngày 16/3/1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 234/SL về vấn đề tôn giáo. Sắc lệnh này quy định từ “đảm bảo tự do tín ngưỡng và tự do thờ cúng, quyền theo hoặc không theo một tôn giáo nào”, đến những vấn đề như hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội của các tôn giáo; vấn đề ruộng đất tôn giáo, quan hệ giữa chính quyền với tôn giáo... Trong đó, Chính phủ đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng của nhân dân. Không ai được xâm phạm quyền tự do ấy. Mọi người Việt Nam đều có quyền tự do theo một tôn giáo hoặc không theo một tôn giáo nào”. Sắc lệnh 234/SL là văn bản có tính chất pháp luật tiêu biểu và hoàn chỉnh nhất cho những cống hiến quan trọng của Hồ Chí Minh trên chặng đường xây dựng luật pháp tôn giáo ở Việt Nam.
Sau khi giải phóng hoàn toàn miền Nam (1975), Đảng và Nhà nước có điều kiện và nâng cao nhận thức để tiếp tục quan tâm sâu sát đến đời sống tôn giáo, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân. Nghị quyết số 297/NQ-HĐBT (11/11/1977) về một chính sách đối với tôn giáo đã đưa ra 05 nguyên tắc của chính sách tôn giáo. Tiếp đến, Hiến pháp 1980 quy định: “Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”. Như vậy, bản Hiến pháp này không chỉ công nhận quyền tự do tín ngưỡng mà đồng thời chống việc lợi dụng tôn giáo.
Có thể khẳng định, việc ban hành các văn bản trong giai đoạn trước đổi mới này đã góp phần quan trọng trong việc tạo niềm tin của đồng bào có đạo vào Đảng và Nhà nước. Nhưng mới chỉ là bước đầu thực hiện quản lý pháp luật đối với một số hoạt động tôn giáo, bởi vì những quy đinh hoạt động tôn giáo còn đơn giản, chưa cụ thể; cơ quan quản lý Nhà nước vể tôn giáo chỉ có ở cấp Trung ương, chưa có cơ quan chuyên trách.
Từ 1990 đến nay, các quan điểm, đường lối tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngường, tôn giáo không chỉ thể hiện trong văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng, mà còn được cụ thể hóa trong những nghị quyết của các cơ quan của Đảng về công tác tín ngưỡng, tôn giáo. Nghị quyết số 24/NQ-TW ngày 16/10/1990 về “tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới” là dấu mốc mở đầu cho bước ngoặt phát triển nhận thức về tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Sự đổi mới nhận thức đó hoàn toàn không xa rời nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo. Nghị quyết này thể hiện ba luận điểm căn bản có tính đột phá trong nhận thức: Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân; Tôn giáo là vấn đề tồn tại lâu dài; Tôn giáo có những giá trị văn hóa đạo đức phù hợp với chế độ mới.
Tiếp đến có Nghị định số 69/HĐBT ngày 21/3/1991 “quy định về các hoạt động tôn giáo”, ghi bổ sung thêm điều khoản về “từ bỏ”, “thay đổi” tôn giáo là: “Mọi công dân có quyền tự do theo hoặc không theo một tôn giáo, từ bỏ hoặc thay đổi tôn giáo”. Ngoài ra, có Chỉ thị số 379/TTG năm 1993 của Thủ tướng Chính phủ “về các hoạt động tôn giáo”.
Trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực hiện Nghị quyết 24/NQ-TW, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ những kết quả, khuyết điểm trong công tác tôn giáo, ngày 02/7/1998, Bộ Chính trị ra Chỉ thị 37/CT-TW về công tác tôn giáo trong tình hình mới. Chỉ thị này yêu cầu công tác tôn giáo của hệ thống chính trị phải tuần thủ 05 nguyên tắc sau:
Thứ nhất, tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo. Mọi công dân đều bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi trước pháp luật, không phần biệt người theo đạo và không theo đạo, cũng như giữa các tôn giáo khác nhau.
Thứ hai, đoàn kết gắn bó đồng bào theo các tôn giáo và không theo tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân.
Thứ ba, mọi cá nhân và tổ chức hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; có nghĩa vụ bảo vệ lợi ích của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; gìn giữ độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia.
Thứ tư, những hoạt động tôn giáo ích nước, lợi dân, phù hợp với nguyện vọng và lợi ích chính đáng, hợp pháp của tín đồ được bảo đảm. Những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo được tôn trọng và khuyến khích phát huy.
Thứ năm, mọi hành vi lợi dụng hoạt động tôn giáo để làm mất trật tự an toàn xã hội, phương hại nền độc lập dân tộc, phá hoại chính sách đoàn kết toàn dân, chống lại Nhà nước, gây tổn hại các giá trị đạo đức, lối sống, văn hoá của dân tộc, ngăn cản tín đồ, chức sắc các tôn giáo thực hiện nghĩa vụ công dân, đều bị xử lý theo pháp luật. Hoạt động mê tín phải bị phê phán và loại bỏ.
Tiếp tục tinh thần đổi mới trong lĩnh vực công tác này, Nghị định số 26/1999/NĐ-CP “về các hoạt động tôn giáo”quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo”. Đây là văn bản được xem có bước tiến quan trọng trong việc đảm bảo quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam.
3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn giáo từ năm 2003 đến trước Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam
Có thể khẳng định, nếu Nghị quyết 24-NQ/TW năm 1990 về “tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới”, Đảng ta mới chỉ nêu ra ba quan điểm chỉ đạo, thì đến Nghị quyết 25-NQ/TW năm 2003, Đảng đã nêu ra 05 quan điểm và chính sách, tiếp tục khẳng định những quan điểm trước đây và bổ sung một số quan điểm mới. Cụ thể:
Thứ nhất, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH. Đảng tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng của nhân dân, xem đây là chính sách lâu dài của đất nước.
Thứ hai, Đảng và Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và nhân dân. Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời, nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia. Quan điểm này là sự kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo và là sự bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin của Đảng ta. Nó có tính đúng đắn và có ý nghĩa thực tiễn to lớn bởi các tôn giáo đều tồn tại trong lòng dân tộc Việt Nam, lợi ích của từng tôn giáo gắn với lợi ích của cả dân tộc. Với tồn tại đó, để tạo nên sức mạnh trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Việt Nam tất yếu phải đoàn kết toàn dân, trong đó có bộ phận đồng bào có đạo.
Thứ ba, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng. Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung. Đảng ta khẳng định, thực chất công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng, yêu cầu các cấp, các ngành quan tâm giải quyết những nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của chức sắc, tín đồ tôn giáo; nắm bắt và giải quyết kịp thời những vấn đề tồn tại trong công tác quản lý hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo; quan tâm đời sống nhân dân. Đối với công tác vận động quần chúng, yêu cầu phải động viên đồng bào nêu cao tinh thần yêu nước và ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất đất nước.
Thứ tư, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Công tác tôn giáo có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, các cấp, các ngành, các địa bàn. Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo có trách nhiệm trực tiếp, cần được củng cố và kiện toàn. Công tác quản lý Nhà nước đối với các tôn giáo và đấu tranh chống việc lợi dụng tôn giáo để chống đối chế độ chỉ thành công nếu làm tốt công tác vận động quần chúng.
Thứ năm, vấn đề theo đạo và truyền đạo. Nghị quyết 25-NQ/TW khẳng định, mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật. Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận được hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ, được hoạt động tôn giáo, mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh sách, giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự tôn giáo theo quy định của pháp luật. Không được lợi dụng tôn giáo để tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức, cá nhân truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định của pháp luật.
Nghị quyết 25-NQ/TW cũng đã chỉ rõ 06 nhiệm vụ của công tác tôn giáo và 04 giải pháp chủ yếu để thực hiện công tác này: Tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, trách nhiệm của hệ thống chính trị và toàn xã hội về vấn đề tôn giáo; Tăng cường công tác vận động quần chúng, xây dựng lực lượng chính trị ở cơ sở; Tăng cường quản lý nhà nước về tôn giáo; Tăng cường công tác tổ chức, cán bộ làm công tác tôn giáo.
Tiếp đến, năm 2004, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo; Chính phủ đã ban hành Nghị định số 22/2005/NĐ - CP hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo; Ban Bí thư Trung ương có Thông báo số 160/TB-TW và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg về một số công tác đối với đạo Tin lành... Có thể thấy, các văn bản này đều đảm bảo thực hiện chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước đối với tôn giáo, là cơ sở pháp lý bảo đảm quyền tự do tôn giáo của nhân dân. Ngoài ra các văn bản pháp lý này còn xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước về tôn giáo, quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân tôn giáo tại Việt Nam.
Riêng Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004 đã thể chế hóa đẩy đủ những quan điểm, chủ trương, chính sách tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước được ghi nhận trong các kỳ đại hội của Đảng đến thời điểm đó. Pháp lệnh đã hướng đến việc bảo đảm tính tương thích với luật pháp quốc tế điều chỉnh về quyền con người trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Pháp lệnh cũng thể hiện chính sách dân chủ, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân; xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức tôn giáo, trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo; tôn trọng và bảo đảm nguyên tắc những việc nội bộ của các tổ chức tôn giáo.
Đến Đại hội X (2006), Đảng ta tiếp tục thể hiện rõ sự đổi mới tư duy của mình trên lĩnh vực tôn giáo. Điểm mới trong văn kiện lần này là đưa ra quan điểm đấu tranh ngăn chặn các hoạt động mê tín dị đoan, các hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm phương hại đến lợi ích chung của đất nước, vi phạm quyền tự do của nhân dân.
Đại hội XI (2011), Đảng ta tiếp tục khẳng định một số quan điểm đã được nêu trong các kỳ Đại hội trước và có một số điểm mới bổ sung. Trong đó, vấn đề tôn giáo được trình bày chủ yếu trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) và Báo cáo Chính trị.
Cương lĩnh khẳng định: Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật. Cần lưu ý, từ Đại hội VIII trở về trước, các quan điểm của Đảng chỉ nêu “tôn trọng”, đến Đại hội IX, X và XI bổ sung thêm cụm từ “bảo đảm”. Thuật ngữ tín ngưỡng, tôn giáo ở Đại hội XI có sự phân biệt rõ ràng “tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật”. Đại hội XI đã có những nhận định mở đường cho việc tiếp tục đổi mới chính sách tôn giáo, một mặt yêu cầu “tiếp tục đổi mới chính sách tôn giáo”, mặt khác nhấn mạnh “hoàn thiện luật pháp tôn giáo”, đây là một nội dung trong nghiên cứu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền cơ bản của con người. Ở nước ta, quyền cơ bản này được ghi nhận trong Hiến pháp 1946 và được tái khẳng định trong các Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992, 2013. Điều 24, Hiến pháp 2013 ghi nhận: “1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật; 2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; 3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”. Hiến pháp cũng bổ sung nguyên tắc về việc hạn chế quyền con người trong các trường hợp nhất định phải do luật định. Theo đó, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền con người, nên việc quy định hạn chế quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo phải được quy định cụ thể và bằng luật.
Đến Đại hội XII (2016), Đảng nêu các quan điểm, chính sách tôn giáo với các vấn đề cơ bản:
+ Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân;
+ Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo;
+ Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo;
+ Tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ theo quy định của pháp luật;
+ Kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo gây chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.
Như vậy, các quan điểm, chính sách tôn giáo tại Đại hội XII của Đảng là sự tiếp tục khẳng định những quan điểm đã được nêu ra trong các kỳ Đại hội trước, đồng thời có sự bổ sung và phát triển cho phù hợp với tình hình mới về công tác tôn giáo.
Ngày 01/01/2018 Luật tín ngưỡng, tôn giáo chính thức có hiệu lực là sự thể hiện nhất quán chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo; khắc phục những tồn tại, bất cập của Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004 và đáp ứng yêu cầu của thực tiễn công tác tôn giáo; phù hợp với các điều ước quốc tế về quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Luật tín ngưỡng, tôn giáo cũng quy định hạn chế can thiệp hành chính nhà nước vào công việc nội bộ của tổ chức tôn giáo. Chuyển đổi cơ chế quản lý từ kiểm soát sang giám sát và hướng dẫn...
Như vậy, đến thời điểm này các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước những vấn đề tôn giáo ở nước ta đã có sự bổ sung, hoàn thiện, hướng đến sự đúng đắn, phù hợp với thực tiễn, trở thành chỗ dựa tin cậy để tiếp tục nhận thức, giải quyết các vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng.
4. Những điểm nổi bật về tôn giáo trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm để đưa đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới đó là tập trung hoàn thiện và triển khai thực hiện tốt các chính sách dân tộc, tôn giáo, thực hiện tốt đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết toàn dân tộc. Đáng chú ý, thuật ngữ “nguồn lực” khi nhận định về những đóng góp của các tôn giáo trong Chỉ thị số 18-CT/TW (2018) của Bộ Chính trị khóa XII được khẳng định và bổ sung thành “các nguồn lực của các tôn giáo”. Đảng ta khẳng định: “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước” [4, tr.171]. Đây là quan điểm sát đúng về tôn giáo và công tác tôn giáo ở nước ta. Hiện nay, Nhà nước đã công nhận và cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo cho 43 tổ chức, thuộc 16 tôn giáo với hơn 27 triệu tín đồ, chiếm khoảng 28% dân số cả nước, trên 55.000 chức sắc, gần 150.000 chức việc, gần 30.000 cơ sở thờ tự [1, tr.44-46]. Đại đa số chức sắc, chức việc, tín đồ tôn giáo nêu cao tinh thần yêu nước, “sống tốt đời đẹp đạo”. Các tổ chức tôn giáo thực hiện đúng đường hướng, phương châm hành đạo gắn bó với dân tộc; tăng cường hoạt động xã hội, từ thiện, đóng góp ngày một lớn cho công tác an sinh xã hội. Các nguồn lực của các tôn giáo rất đa dạng: nguồn lực con người; nguồn lực từ cơ sở vật chất, nguồn vốn, khả năng vận động, huy động tài chính; những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo.... Những nguồn lực này được sử dụng vào việc “Đời”, ích nước - lợi dân thì đó là một trong những nguồn lực cần phát huy trong phát triển đất nước.
Trước hết, cần khẳng định, văn kiện Đại hội XIII của Đảng đề cập toàn diện về tôn giáo và công tác tôn giáo.
- Trong Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng, nhấn mạnh: “Tập trung hoàn thiện và triển khai thực hiện tốt các chính sách dân tộc, tôn giáo; có những chính sách đặc thù giải quyết khó khăn cho đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện tốt đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết toàn dân tộc. Nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cản trở sự phát triển của đất nước” [4, tr.50-51]. Để xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh của con người Việt Nam, cần phát huy các nhân tố tích cực, nhân văn trong các tôn giáo, tín ngưỡng. Phê phán và ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, mê tín, dị đoan.
- Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021 - 2030, mục tiêu được xác định là: “Thực hiện tốt mục tiêu đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết toàn dân tộc. Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người theo quy định của pháp luật. Phát huy giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo vào giữ gìn và nâng cao đạo đức truyền thống xã hội, xây dựng đời sống văn hóa ở các khu dân cư, góp phần ngăn chặn các tệ nạn xã hội” [4, tr.272].
- Trong Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 và Phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025, Đảng đã có những đánh giá những thành tựu và hạn chế liên quan đến tôn giáo.
+ Về thành tựu đạt được, văn kiện nêu rõ: “Tình hình tôn giáo ổn định; đa số chức sắc, chức việc và đồng bào có đạo yên tâm, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, góp phần đấu tranh, phản bác luận điệu xuyên tạc, vu cáo chính quyền vi phạm nhân quyền, tự do tôn giáo” [5, tr.45].
+ Về hạn chế còn tồn tại, văn kiện nêu rõ: “Quản lý Nhà nước về văn hóa, nghệ thuật, tôn giáo, tín ngưỡng có mặt còn hạn chế. Có hiện tượng thương mại hóa các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở một số nơi” [5, tr.73].
+ Đảng xác định nhiệm vụ, giải pháp: “Tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt đúng quy định của pháp luật; chủ động giúp đỡ, giải quyết các nhu cầu hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, tâm linh của quần chúng, đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác tôn giáo.” [5, 141]
Tiếp đến, cũng tại Đại hội XIII, Đảng ta đánh giá khách quan, khái quát những điểm cốt lõi về tình hình tôn giáo và công tác tôn giáo ổn định ở nước ta.
- Trong những năm gần đây, các tôn giáo ở Việt Nam luôn đồng hành cùng dân tộc Nhà nước luôn quan tâm, tạo điều kiện và bảo đảm hoạt động, sinh hoạt tôn giáo theo đúng quy định của pháp luật. Các tổ chức tôn giáo luôn có sự phối hợp, liên kết dưới mái nhà chung Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở các cấp để tham gia các hoạt động ích nước, lợi dân, được chính quyền và xã hội đánh giá cao. Không có những mâu thuẫn giữa các tôn giáo và trong nội bộ từng tôn giáo. Đảng, Nhà nước ta trân trọng ghi nhận, biểu dương những kết quả, đóng góp của đồng bào có đạo trong sự nghiệp cách mạng nói chung, thời kỳ đổi mới nói riêng. Bên cạnh đó, Đảng ta cũng chỉ ra: Quản lý nhà nước về tôn giáo có mặt còn hạn chế và còn có các hiện tượng thương mại hóa các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở một số nơi. Đây là một trong những hạn chế được dư luận hết sức quan tâm trong thời gian qua.
- Trong dự báo tình hình quốc tế và khu vực thời gian tới, Đảng xác định vấn đề xung đột tôn giáo là một trong những thách thức lớn đe dọa sự ổn định và phát triển ở một số khu vực, quốc gia. Từ đó, xác định nhiệm vụ, giải pháp thực hiện về công tác tôn giáo: “Vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống “tốt đời đẹp đạo”, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo quy định pháp luật và hiến chương, điều lệ được Nhà nước công nhận. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước. Kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm minh những đối tượng lợi dụng tôn giáo chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; chia rẽ, phá hoại đoàn kết tôn giáo và khối đại đoàn kết toàn dân tộc.” [4, tr.171]
Trong văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta có kế thừa, tiếp thu những ý kiến đóng góp quý báu của các nhà lãnh đạo, quản lý, quản trị về tôn giáo, các nhà khoa học và tín đồ, chức sắc của các tôn giáo, trên cơ sở đó có sự bổ sung, cập nhật một số nội dung cụ thể.
- Văn kiện chỉ rõ: “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự phát triển đất nước”. Ở Việt Nam, thuật ngữ “nguồn lực tôn giáo” khá mới, nhưng về cơ bản nguồn lực tôn giáo được xác định gồm nguồn lực vật chất và nguồn lực tinh thần. Những nguồn lực này được sử dụng vào việc “Đời”, ích nước, lợi dân thì đó là một trong những nguồn lực cần phát huy trong phát triển đất nước.
- Phù hợp với truyền thống lịch sử và các lý thuyết về xây dựng khối sức mạnh toàn dân, Đảng ta đã đặt mục tiêu của công tác tôn giáo là đoàn kết tôn giáo trong mục tiêu chung đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Đảng ta tiếp tục khẳng định việc đảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho mọi người. Bảo đảm ở đây bao hàm cả sự tôn trọng, quan tâm, tạo điều kiện về mặt pháp lý lẫn thực tế đối với quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Đối tượng bảo đảm được mở rộng là “con người”, không những là tổ chức, “nhân dân”, “công dân” ở trong nước mà còn là tổ chức, cá nhân người nước ngoài có tôn giáo khi họ sinh sống, học tập, làm việc ở Việt Nam cũng như người Việt ở nước ngoài khi về nước.
- Trong văn kiện Đại hội XIII, Đảng khẳng định sự chủ động nhằm giải quyết đồng thời hai nhiệm vụ cần được tiến hành song song, đề cao tính chủ động của hệ thống chính trị, nhất là các cơ quan chức năng, đó là: (1) Giúp đỡ, giải quyết các nhu cầu hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, tâm linh của quần chúng; (2) Phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Đảng ta đánh giá tầm quan trọng, vai trò của quản lý nhà nước về công tác tôn giáo ở nước ta: “Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác tôn giáo”. Xác định quản lý nhà nước về công tác tôn giáo phải là trung tâm, các cơ quan chức năng phải có đủ năng lực, hệ thống luật pháp, cơ chế bảo đảm phù hợp và đảm bảo nâng cao chất lượng hiệu quả tiến hành công tác tôn giáo.
KẾT LUẬN
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo. Trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng và Nhà nước luôn nhất quán chính sách tôn trọng, đảm bảo và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Đường lối, chính sách đó được xây dựng dựa trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tự do tín ngưỡng, tôn giáo và luôn được bổ sung, phát triển phù hợp với điều kiện lịch sử, thực tiễn xây dựng, phát triển đất nước cũng như tình hình khu vực, quốc tế, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay.
Trong giai đoạn hiện nay, việc giảng dạy lý luận chính trị ở các trường đại học giữ vai trò rất quan trọng trong tuyên truyền quan điểm, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, trong đó có nội dung về tôn giáo và công tác tôn giáo. Để thực hiện tốt vai trò, nhiệm vụ của mình, những người làm công tác nghiên cứu và giảng dạy các môn lý luận chính trị cần cập nhật và truyền tải tinh thần đổi mới, sáng tạo; nội dung khoa học, có tính khái quát kịp thời thực tiễn sinh động trong các quan điểm, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Việc cập nhật này cần được thực hiện một cách thường xuyên, qua nhiều kênh thông tin khác nhau như nghiên cứu tài liệu, tham gia các hội nghị, tập huấn, nắm bắt thông tin liên quan qua truyền hình, internet, qua sinh hoạt chuyên đề, v.v.. Căn cứ vào đặc thù và nội dung các môn học cụ thể, mà hoạt động nghiên cứu và giảng dạy có thể đề cập một cách hợp lý đến các quan điểm, chính sách về tôn giáo nhưng nhất định phải đảm bảo đúng nội dung khoa học và tinh thần cách mạng trong các quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước. Từ đó, góp phần khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam; tinh thần đoàn kết, tự hào dân tộc trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, hoàn thành các mục tiêu cụ thể được xác định vào các thời điểm năm 2025, 2030 và 2045.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Ban Tôn giáo Chính phủ (2021), Công tác tôn giáo 2021, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
[2]. C. Mác và Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[3]. Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Sắc lệnh sổ 234/SL, ngày 14/6/1955.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập II, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Chỉ thị số 37 của Bộ Chính trị, ngày 02/7/1998 về công tác tôn giáo trong tình hình mới.
[7]. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
TS. Nguyễn Văn Sang
Trường Đại học Vinh
- Một số nội dung về phương pháp sử dụng ngôn ngữ trong văn bản hành chínhKhoa Chính trị và Báo chí13/11/2024
- Khoa Chính trị và Báo chí tổ chức và tham dự thao giảng cấp khoa của TS. Nguyễn Thị Lê VinhKhoa Chính trị và Báo chí31/10/2024
- Giải bóng đá nam nữ khoa Chính trị và báo chí năm 2024Khoa Chính trị và Báo chí24/10/2024
- Lễ Phát Động Giải Chạy Dành Cho HSSV S-Race 2024Đoàn thanh niên18/10/2024
- Thông báo tuyển sinh đào tạo trình độ thạc sĩ năm 2024Đào tạo15/10/2024
- Tổ chức thành công Đại hội Đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trường KHXH&NV nhiệm kỳ 2024 - 2027Đoàn thanh niên13/10/2024
- Chào mừng Đại hội Đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh Trường Khoa học Xã hội & Nhân văn nhiệm kỳ 2024 - 2027Đoàn thanh niên10/10/2024
- Kỹ năng khai thác tài liệu trong quá trình tự học của sinh viênKhoa Chính trị và Báo chí05/10/2024